Đề cập tới mục tiêu phải giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp trong năm 2013 của UBND Tp.Hà Nội, theo ông Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, doanh nghiệp vẫn cần có môi trường kinh doanh thuận lợi, tiếp cận vốn vay rẻ.
Hà Nội nên lắng nghe nhiều hơn ý kiến doanh nghiệp
PV: Tại cuộc họp Hội đồng nhân dân Tp.HN, báo cáo của Ủy ban Nhân dân Tp.HN có nêu ra những tồn tại, hạn chế về 4 chỉ tiêu liên quan tới tăng trưởng kinh tế không đạt kế hoạch. Trong nhiều nguyên nhân, có nguyên từ bản thân các doanh nghiệp. Ở nguyên nhân này, ông có thể nhận định thêm?. Ngoài ra còn có nguyên nhân nào khác?.
Ông Tô Hoài Nam: Theo UBND TP Hà Nội, trong năm 2012, sản xuất kinh doanh vẫn còn gặp
Ông Tô Hoài Nam – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
khó khăn; số doanh nghiệp ngừng hoạt động có xu hướng gia tăng; sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất – khẩu có xu hướng tăng chậm lại; chỉ tiêu về xuất khẩu không đạt kế hoạch…
Các nguyên nhân mà UBND TP Hà Nội đã nêu, tôi thấy tương đối đầy đủ, như do suy thoái kinh tế toàn cầu; do thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát đã làm cầu nội địa giảm mạnh, hàng tồn kho lớn; tín dụng tăng cao; thành phố còn nhiều yếu kém nội tại như hạ tầng kinh tế xã hội; nhu cầu đầu tư hạ tầng…
Nguyên nhân chủ quan được nêu là do trong lãnh đạo, quản lý, điều hành ở một số cấp, ngành, lĩnh vực trong giải quyết công việc còn chưa quyết liệt, thiếu sáng tạo; sự phối hợp chưa chặt chẽ; kỷ cương hành chính chưa nghiêm và bản thân doanh nghiệp cũng thiếu nhạy bén..).
Theo tôi, còn một nguyên nhân nữa cần phải nói đến, đó là làm thế nào để các cơ quan quản lý nhà nước gần doanh nghiệp hơn.
Nói một cách hình ảnh, tức là Hà Nội lắng nghe nhiều hơn những ý kiến của doanh nghiệp, bởi vì doanh nghiệp bây giờ vừa là đối tượng bị quản lý nhưng cũng vừa là đối tượng cần được nuôi dưỡng.
Còn nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp thì bản thân các doanh nghiệp, cái cần phải làm đó là biết liên kết mạnh mẽ với nhau . Ngoài cái việc quản lý, điều hành,nâng cao khả năng quản trị , định hướng kinh doanh, …thì dứt khoát phải biết liên kết với nhau .
– Một số chỉ tiêu chủ yếu được Tp.Hà Nội đặt ra trong năm tới như GRDP, tốc độ tăng giá trị xuất khẩu hàng hóa…không thay đổi nhiều so với năm 2012. Có vẻ như năm 2013, doanh nghiệp cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, thưa ông?
Theo báo cáo của UBND Tp.HN, mục tiêu năm 2013, về tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt từ 8-8,5%; tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn là 15 -16,5%; Tốc độ tăng giá trị xuất khẩu hàng hóa đạt 9 -10%. Đúng là không thay đổi nhiều so với năm 2012, nhưng theo tôi đó là mức hợp lý.
Việt Nam giờ đã hội nhập, không thể nào tách rời khỏi thế giới , thế nên tình hình khó khăn vẫn còn nhiều. Vì vậy, đặt ra các chỉ tiêu phát triển kinh tế, doanh nghiệp trên địa bàn doanh nghiệp ở mức độ khiêm tốn như thế nào là hợp lý .
Tôi nghĩ là với tình hình này, khó có sự thay đổi lớn trong năm 2013 . Nếu có thì đó không phải là thay đổi lớn, mà chỉ là có tính chất mở đầu, tiền đề cho năm 2014.
Doanh nghiệp – nguồn nuôi dưỡng ngân sách cũng cần được nuôi dưỡng
-Trong năm 2012, các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội cũng chịu nhiều thiệt hại do ảnh hưởng từ khó khăn chung. Theo thống kê mới nhất, tính đến hết tháng 11, đã có hơn 12.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động; khoảng 71% doanh nghiệp kê khai lỗ. Ông nhận định thế nào về những con số trên?
Đây phản ánh một bức tranh rất đúng về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tất nhiên trong sự cạnh tranh của thị trường, còn có quy luật tự đào thải và quy luật tồn tại. Quy luật này nói lên doanh nghiệp nào yếu thì sẽ không vượt qua được những lúc khó khăn như thế này.
Tuy nhiên, với con số 71% doanh nghiệp Hà Nội kê khai lỗ, có vẻ bất hợp lý so với tăng trưởng của Hà Nội. Con số này cũng cần phải xem lại. Có lẽ con số này là con số khai từ phía doanh nghiệp.
Tuy nhiên, chung quy lại đây là giai đoạn báo hiệu rất đáng ngại đối với tình hình hoạt động của các doanh nghiệp.
Tôi xin nói thêm rằng, doanh nghiệp có một đặc điểm là khi doanh nghiệp đã yếu hoặc gặp khó khăn thì sẽ yếu nhiều đi , bởi sức chống đỡ cũng yếu dần, chứ không phải năm nay yếu, sang năm gặp khó khăn thì không yếu nữa . Sức kháng cự trước khó khăn của doanh nghiệp yếu dần đi, điều này rất nguy hiểm, các cơ quan quản lý cần chú ý điều đó.
– Cần có những giải pháp cụ thể nào để doanh nghiệp Hà Nội thoát khó khăn trong năm tới, đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động, thưa ông?
Theo tôi cái mà doanh nghiệp cần hỗ trợ nhất hiện nay đó là phải giải quyết được thị trường cho doanh nghiệp. Thứ hai là tạo điều kiện cho doanh nghiệp một môi trường kinh doanh thuận lợi; được tiếp xúc với vốn một cách thuận lợi, giá rẻ;
Các thủ tục hành chính liên quan tới doanh nghiệp cần được làm gọn lại, giảm bớt đi mức độ tối đa. Tất cả rào cản giấy phép nào liên quan tới thủ tục hành chính mà có thể bỏ qua được thì ta nên giảm.
Riêng với Hà Nội có đặc điểm là, tuy là doanh nghiệp Hà Nội nhưng lại có tác động gần như trên toàn quốc . Bởi, Hà Nội có nhiều doanh nghiệp đặt trụ sở, đại diện ở Hà Nội , nhưng có mạng lưới hoạt động rộng khắp cả nước. Vì thế nên là tạo môi trường hoạt động thông thoáng cho doanh nghiệp là rất cần thiết .
Cần tạo điều kiện về vốn, các thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho các Hội, đoàn, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp được phát huy nhiệm vụ của mình, cũng như những ưu điểm của mình, trong việc kết nối các doanh nghiệp, liên kết các doanh nghiệp.
Tôi vẫn nói, trong lúc khó khăn thì khả năng gắn kết các doanh nghiệp lại với nhau là rất quan trọng .
-Một trong những giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh của thủ đô Hà Nội đó là hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn tín dụng với lãi suất hợp lý. Theo ông lãi suất cho vay ở mức nào là hợp lý ?
Theo tôi các tổ chức tín dụng (TCTD) cố gắng làm sao cho vay được dưới 10%. Tất nhiên đây là việc làm rât khó, bởi vốn vay còn phụ thuộc vào tỷ lệ huy động, nhưng các TCTD cần vào cuộc thực sự , cố gắng để mức chênh lệch giữa vốn huy động và vốn vay thấp lại. Muốn vậy thì các TCTD phải giảm bớt các chi phí (như lương, thưởng…).
Cũng cần tính đến chuyện lâu dài là doanh nghiệp Việt Nam có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp trong khu vực . Hiện nay, lãi suất vay cho các doanh nghiệp trong khu vực vẫn thấp hơn Việt Nam. Khi hai doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, đồng vốn ở doanh nghiệp nào vay thấp hơn, có nghĩa là chi phí thấp hơn thì có lợi thế hơn.
Đó là chưa kể là ta phải cạnh tranh với những nước có năng suất lao động cao hơn ta. Hiện nay năng suất lao động của Việt Nam đang thấp hơn họ, ví dụ như vẫn thấp hơn Thái Lan, Malaysia. Trong khi ta phải vay với vốn cao hơn nữa thì sức cạnh tranh không còn .
Vấn đề nữa là các TCTD cần giảm các điều kiện vay cho các doanh nghiệp . Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hiện nay điều kiện vay vốn là ngoài sức của các doanh nghiệp .
Điểm nữa là cần quan tâm khai thông thị trường . Dứt khoát phải mở thị trường cho các doanh nghiệp, tạo ra môi trường kinh doanh hết sức thuận lợi, đừng để doanh nghiệp bị ức chế bởi các thủ tục hành chính quan liêu . Điều đó làm mất đi niềm tin của doanh nghiệp.
Trong hoạt động của doanh nghiệp, điều đáng sợ nhất là bị bỏ rơi, bị chính quyền, nhà nước gạt sang sang bên lề khi gặp khó khăn, không quan tâm đến khó khăn của doanh nghiệp .
Tôi nghĩ nhà nước quản lý, ngoài chuyện thu thuế của doanh nghiệp thì cần phải có sự nuôi dưỡng doanh nghiệp, nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách . làm sao để doanh nghiệp không chỉ là đối tượng bị quản lý mà còn là đối tượng được phục vụ, để tạo nên sự phát triển.
Môi trường kinh doanh cũng cần được cải thiện mà công cụ đo lường của nó là chính sách vốn, cơ chế chính sách pháp luật hợp lý ,…sẽ tạo ra một môi trường phát triển bền vững và cạnh tranh lành mạnh.
Xin cảm ơn ông!