Chín nhóm giải pháp tăng hiệu quả cơ chế, chính sách của nhà nước phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ
Chủ trương của Đảng, Nhà nước thể hiện trong các Nghị quyết TƯ qua các kỳ Đại hội Đảng luôn hết sức chú trọng đầu tư cho KHCN, coi đây là quốc sách hàng đầu trong phát triển nền kinh tế thời kỳ mở cửa, hội nhập, cạnh tranh ngày càng khốc liệt hiện nay.
Chủ trương của Đảng, Nhà nước thể hiện trong các Nghị quyết TƯ qua các kỳ Đại hội Đảng luôn hết sức chú trọng đầu tư cho KHCN, coi đây là quốc sách hàng đầu trong phát triển nền kinh tế thời kỳ mở cửa, hội nhập, cạnh tranh ngày càng khốc liệt hiện nay.
Từ những năm đầu thập niên của thế kỷ này, nhiều ngành, lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế không ngừng đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng kỹ thuật tiên tiến, nghiên cứu ứng dụng nhiều loại công nghệ mới. Trình độ lực lượng sản xuất không ngừng được nâng lên dần đạt mức trung bình tiên tiến so khu vực. Nhờ đó lần lượt trong số 04 động lực chính của nền kinh tế (FDI, DNNN, DNNVV, Nông nghiệp) đều có đóng góp ở mức độ khác nhau cho tăng trưởng GDP, tạo thêm nhiều việc làm, thu nhập cho người lao động. Bên cạnh đó tiến trình triển khai nhiều quyết sách KHCN cũng chưa đáp ứng kịp đòi hỏi thực tiễn, kết quả chưa được như mong muốn.
Viện khoa học quản trị DNNVV (SISME) trực thuộc Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME) nhân sự kiện nhiều Bộ, Ngành chức năng hiện đang rất quan tâm rà soát lại mặt chính sách hỗ trợ phát triển lâu nay đối với khu vực SMEs nói chung ; Viện xin đề xuất lên các Cơ quan Đảng, Chính phủ mà trực tiếp là Bộ KH & CN 09 nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơ chế, chính sách về KH & CN đối với SMEs " như sau :
1. Cần đánh giá đúng nguyên nhân thành bại, khuyến khích, hỗ trợ thiết thực hơn nữa việc thực hiện nhiệm vụ KHCN của các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế thuộc lĩnh vực, ngành nghề chủ đạo của nền kinh tế :
1.1. Doanh nghiệp không bị sa vào vòng xoáy đầu tư ngoài ngành, kinh doanh bài bản, trụ vững qua cơn khủng hoảng kinh tế vừa qua, khá nhiều doanh nghiệp tên tuổi trong số này (như : Gốm sứ Minh Long, Bóng đèn Rạng đông, Cà phê Trung Nguyên, Sữa Vinamilk, Sản phẩm in, bao bì Mỹ Lan, Thiên Dược, Traphaco, Sài gòn Food, Tôn Hoa Sen, Thép Hòa Phát ... ) nhờ kiên định chú tâm đầu tư KHCN mà có kết quả hoạt động KH & CN chiếm ít nhất 85% doanh thu. Mặc dù vậy do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế và môi trường kinh doanh vừa qua họ cũng có khó khăn nhất định. Nhà nước cần tiếp tục hỗ trợ để số doanh nghiệp này tiếp tục phát triển tốt, tạo sức lan tỏa góp phần thay đổi diện mạo phát triển kinh tế đất nước chủ yếu dựa vào nền tảng KHCN mới;
1.2 Doanh nghiệp mới khởi nghiệp hoặc phải tái cấu trúc gặp nhiều khó khăn hơn, còn lúng túng định hướng KHCN, khó khẳng định vị thế, thị phần, thị trường, khó nắm bắt cơ hội, thời cơ, khó vượt qua nhiều thách thức hội nhập, mở cửa thị trường theo các lộ trình AFTA, WTO, TPP ... nhưng nằm trong định hướng tạo đà phát triển bền vững của nền kinh tế (như : cơ khí, tự động hóa, hóa chất, thông tin truyền thông , công nghệ sinh học, vật liệu mới, bảo vệ môi trường, năng lượng mới ...) cần nhanh chóng hỗ trợ để trở thành doanh nghiệp KHCN, được hưởng đầy đủ các ưu đãi của Nhà nước mới có thể phát triển được;
2. Cần đánh giá đúng nguyên nhân thành bại, khuyến khích, hỗ trợ thiết thực hơn nữa qua góc độ thực hiện nhiệm vụ KHCN của các doanh nghiệp thuộc các ngành CN hỗ trợ (chú yếu là SMEs), khôi phục nhanh động lực tăng trưởng kinh tế này:
2.1. Phát triển công nghiệp hỗ trợ không chỉ cần vốn vay ưu đãi, chính sách thuế hấp dẫn hay mặt bằng sản xuất phù hợp, mà còn rất cần sự hỗ trợ đúng đắn của KHCN. Chúng ta có khá nhiều ngành, lĩnh vực vươn lên phát triển tầm khu vực, vừa qua rõ hơn cả là khu vực doanh nghiệp FDI, như : tập đoàn Samsung sản xuất máy di động ở Bắc Ninh dẫn theo khoảng 80 công ty vệ tinh, tạo sự khác biệt giữa giá trị sản phẩm xuất khẩu và linh kiện lên tới gần 10 tỷ USD. Theo đó sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam bắt đầu hình thành ngành công nghiệp thực thụ;
2.2. Phát triển công nghiệp hỗ trợ thường nhờ các “cú hích” từ dòng vốn FDI, nhưng phải với tỷ lệ nội địa hóa cao. Hơn 20 năm qua có nhiều mong muốn thúc đẩy các ngành sản xuất nguyên liệu, linh kiện, phụ kiện và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh mạnh. Nhưng chỉ mới tạm thành công ở một số nhóm sản phẩm : xe máy, máy giặt, máy in (bình quân tỷ lệ nội địa hóa 70-80%). Trong khi những ngành phụ trợ Việt Nam muốn phát triển, như : ô tô, dệt may, da giày, nhựa, cơ khí chế tạo ... thì coi như chưa đạt kỳ vọng, nếu không muốn nói nền sản xuất ta còn chưa thoát “kiếp gia công” cho nước ngoài, bất kể Chính phủ có nhiều chính sách (kể cả liên quan KHCN) để khuyến khích thúc đẩy;
2.3. Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngoài yếu tố KHCN thì sự nhất quán, ổn định lâu dài về các chính sách với cơ chế linh hoạt của Nhà nước là hết sức quan trọng. Ngay từ khâu cấp giấy phép đầu tư cho các doanh nghiệp FDI đã cần phải tính đến hiệu ứng cần thiết phát triển công nghệ phụ trợ tỷ lệ nội địa hóa cao, đáp ứng nhu cầu sản lượng lớn, tác động và kiểm soát được quyết định mua nguyên vật liệu, linh kiện và phụ kiện của chủ doanh nghiệp. Nếu làm được như vậy Việt Nam giành thế chủ động quản lý các nhà đầu tư nước ngoài ngay từ khâu hoạch định chiến lược đầu tư và kinh doanh lâu dài, góp sức xây dựng ngành CN phụ trợ ở Việt Nam;
2.4. Phát triển công nghiệp hỗ trợ của Chính phủ hướng tới các SMEs nên cần nhanh chóng rút ngắn khoảng cách thua kém về KHCN cho họ thì mới gia nhập được “sân chơi” của các tập đoàn lớn nước ngoài vốn đòi hỏi yêu cầu cao về chất lượng, độ ổn định nguyên liệu, linh kiện “đầu vào”, cũng như tiêu chí, tiêu chuẩn về điều kiện lao động, mặt bằng sản xuất, quản trị doanh nghiệp ... Cần sớm tạo nhiều điều kiện hơn nữa thành lập nhanh, nhiều các doanh nghiệp KHCN là SMEs hoặc đã qua “vườn ươm” dưới sự “bảo mẫu” của nhà đầu tư nước ngoài hoặc được đầu tư nhận chuyển giao với giá “mềm” các bí quyết công nghệ, bản quyền thiết kế ... từ kho “phát minh, sáng chế, sở hữu trí tuệ” của Bộ KHCN. Vì lâu nay hầu như doanh nghiệp ta chỉ mua được công nghệ đi kèm thiết bị của nước ngoài, kiểu “bia kèm lạc”; nhiều trường hợp khó tránh được “của rẻ là của ôi”, bị lạc hậu nhanh chóng và biến đất nước thành bãi thải “công nghệ” của nước ngoài;
3. Cần đánh giá đúng nguyên nhân thành bại, khuyến khích, hỗ trợ thiết thực hơn nữa qua góc độ thực hiện nhiệm vụ KHCN của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân, gồm các SME và các tổ chức kinh tế khác:
3.1. Qua 05 năm thực hiện Nghị quyết TW 7 (Khóa X) về tam nông, có nhiều kết quả ấn tượng trong nghiên cứu ứng dụng KHCN vào phát triển nông nghiệp (nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới cho năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn, cạnh tranh được nhập ngoại ...). Một số mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới. Tuy nhiên có tình trạng lượng đáng mừng, chất hạn chế, được mùa thì mất giá, được giá thì mất mùa, đối mặt nhiều sản phẩm cạnh tranh giá thấp bên ngoài tràn vào;
3.2. Phát triển DN KHCN trong nông nghiệp phải định hướng kiên trì, quyết liệt thoát khỏi sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, nâng nhanh hàm lượng KHCN trong giá trị sản phẩm mới cạnh tranh được trên thị trường thế giới, có chính sách thu hút nhiều hơn các doanh nghiệp, doanh nhân đầu tư vào các dự án sản xuất nông phẩm công nghệ cao; kiện toàn hiệu quả mối liên kết 04 nhà – nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp;
3.3. Phát triển DN KHCN trong nông nghiệp phải dựa nền tảng cơ sở hạ tầng nông thôn thuận lợi, chú trọng phát triển cơ giới hóa trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông phẩm, cần có chính sách ưu đãi với nhiều hình thức thông thoáng (tài chính, tín dụng, bảo lãnh, bảo hiểm, quĩ đầu tư đổi mới KHCN ...) giúp nông dân, doanh nghiệp trong nông nghiệp đủ điều kiện đổi mới công nghệ, MMTB nông nghiệp nhằm giảm bớt tổn thất trong quá trình thu hoạch, tăng giá trị qua chế biến và tận dụng chế, phụ phẩm sau thu hoạch;
3.4. Phát triển DN KHCN trong nông nghiệp phải được nâng cao hơn nữa tỷ trọng đầu tư kinh phí từ ngân sách và thu hút các nguồn lực khác dành cho nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào nông nghiệp một cách tập trung, trọng tâm, trọng điểm cho mục tiêu hình thành các chuỗi giá trị gia tăng tối ưu từ nghiên cứu tới sản phẩm cuối cùng; tăng cường hơn nữa sự liên kết giữa giới khoa học với doanh nghiệp, nông dân và thị trường; ưu tiên hỗ trợ các mô hình tiên tiến trong nông nghiệp có tác động lan tỏa, sâu rộng cải thiện nhanh chóng đời sống của người thu nhập thấp, yếu thế trong xã hội, đồng thời đặc biệt khuyến khích sự chủ động, sáng tạo trong sản xuất hàng nông phẩm xuất khẩu có giá trị cao;
4. Cơ chế, chính sách phát triển KHCN phải đồng bộ, khép kín, triển khai quyết liệt, lộ trình phù hợp kết hợp tăng cường vai trò của Bộ KHCN với chế tài đủ mạnh nhằm sớm ngăn chặn và chấm dứt tình trạng các doanh nghiệp dễ dàng nhập khẩu công nghệ, thiết bị lạc hậu; cần thiết Nhà nước có biện pháp hỗ trợ kinh phí và bằng cơ chế mềm dẻo, linh hoạt giúp doanh nghiệp từ bỏ MMTB, CN cũ, lạc hậu thay thế mới từng bước đến toàn bộ, kết hợp phá bỏ với di dời sang địa điểm qui hoạch mới theo cụm, khu CN ... đảm bảo vấn đề môi trường, an sinh xã hội;
5. Cơ chế, chính sách phát triển KHCN phải hướng vào doanh nghiệp là trung tâm mọi đổi mới sáng tạo, đồng thời tạo ngay điều kiện để các nhà khoa học “sống khỏe, sống đàng hoàng” với các “đề tài nghiên cứu” được “thương mại hóa” thông qua hình thức “đơn đặt hàng” của doanh nghiệp; gắn kết mọi sản phẩm KHCN với thị trường “đầu ra” có địa chỉ cụ thể, có tính ổn định bền vững lâu dài; chú trọng hỗ trợ phát huy các mô hình sản xuất của DN KHCN thông qua lực lượng tài trợ mạnh và bao tiêu sản phẩm chắc chắn;
6. Cơ chế, chính sách phát triển KHCN cần nhất quán, ổn định lâu dài, tránh dẫm đạp chồng chéo “ một người nhấn ga, nhiều người cắt côn, đạp phanh”; cần hướng tháo gỡ nhắm đúng chỗ “ngứa cần gãi” của doanh nghiệp hiện nay là không chỉ cần vốn vay ưu đãi, thuế hấp dẫn, mặt bằng sản xuất phù hợp, mà mọi thủ tục, cách thức triển khai về KHCN phải thông thoáng, nhanh chóng và hiệu quả đồng bộ với các chính sách của Nhà nước về sản xuất, về thị trường nội địa và XNK, cần minh bạch, công khai, rõ ràng, để doanh nghiệp không bị tăng chi phí phi kinh tế, vấp rủi ro chính sách, hoặc bị “chết oan” do chính sách thay đổi đột ngột;
7. Tiếp tục xã hội hóa thu hút mọi nguồn lực của mọi thành phần kinh tế xã hội, gồm cả trong và ngoài nước vào phát triển KHCN, bằng chính sách linh hoạt và thông qua các hình thức khác nhau để “thương mại hóa” các sản phẩm KHCN, chẳng hạn : thể chế hóa việc tổ chức đấu thầu ý tưởng , sáng kiến, phát minh, sáng chế, mua bán bản quyền kỹ thuật, bản quyền sở hữu trí tuệ, phát triển các hình thức chợ công nghệ, đa dạng hóa “vốn hóa” các sản phẩm trí tuệ ...;
8. Hạn chế, thu hẹp dần đến chấm dứt tổ chức triển khai nhiệm vụ KHCN công nghệ mang nặng tính thủ tục hành chính, thay thế bằng các sắc luật về thuế, định mức kinh tế kỹ thuật, đấu thầu, thuê mướn KHCN, tự khai báo đăng ký điều kiện hỗ trợ tài chính, tín dụng, bảo lãnh, bảo hiểm ... và hệ thống các tiêu chí, tiêu chuẩn pháp qui về KHCN để buộc tất cả mọi lực lượng xã hội phải tuân thủ, kèm theo đó là các chế tài răn đe, trừng phạt hữu hiệu nếu sai phạm, trục lợi; tăng cường vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của Bộ KHCN trong việc cấp phép thành lập mới DN, xử lý các DN sản xuất gây hại môi trường, thẩm định các dự án đầu tư XDCB, gồm cả nhập khẩu MMTB và CN;
9. Cần tiếp tục đổi mới để các DN KHCN dễ dàng tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ phù hợp, như : tín dụng, bảo lãnh tín dụng có ưu đãi (Quyết định số 58/2013/TTg) thông qua VDB, các NHTM, hay tài trợ không hoàn lại từ Quĩ phát triển KH & CN quốc gia (Thông tư số 15/2011/TT-BTC), Quĩ đổi mới KH & CN (Quyết định 1051/QD-TTg/2013), tài trợ hoàn lại từ Quĩ phát triển SMEs (Quyết định số 601/QĐ-TTg/2013), Quĩ hỗ trợ nông dân vay vốn ko lãi nhân rộng các mô hình kinh tế, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật (Thông tư số 2013/TT-BTC/2013), chưa kể các Quĩ trợ giúp kỹ thuật của cộng đồng tài chính quốc tế (VBCF ...), Quĩ đầu tư mạo hiểm vào KHCN sắp ra đời ...
Tóm lại, cùng với nỗ lực trước mắt kiểm soát để ổn định vĩ mô của nền kinh tế, sớm thoát nhanh khỏi đáy khủng hoảng, từng bước giải quyết 04 trụ cột của nền kinh tế (cải cách thể chế; tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện cơ sở hạ tầng), chú trọng tái khởi động 04 động lực tăng trưởng nền kinh tế (như đã nêu); thì tiếp tục đổi mới, kiện toàn cơ chế, chính sách phát triển KHCN với 09 nhóm giải pháp nêu trên được xem là một trong những điều kiện quyết định kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững thời gian tới của nước ta.
![]() | |
| Tiến sỹ Phạm Ngọc Long - Viện trưởng Viện Khoa học Quản trị doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam |
| Theo 01 nghiên cứu của Cục phát triển TTKHCN & DN Bộ KHCN, chỉ số TFP thể hiện đóng góp yếu tố KHCN/GDP (loại trừ vốn và lao động) thì từ 2007 đến nay giảm sút mạnh, trong khi chỉ số vốn, lao động/GDP xu hướng tăng nhanh trở lại; |
Viện khoa học quản trị DNNVV (SISME) trực thuộc Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME) nhân sự kiện nhiều Bộ, Ngành chức năng hiện đang rất quan tâm rà soát lại mặt chính sách hỗ trợ phát triển lâu nay đối với khu vực SMEs nói chung ; Viện xin đề xuất lên các Cơ quan Đảng, Chính phủ mà trực tiếp là Bộ KH & CN 09 nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơ chế, chính sách về KH & CN đối với SMEs " như sau :
1. Cần đánh giá đúng nguyên nhân thành bại, khuyến khích, hỗ trợ thiết thực hơn nữa việc thực hiện nhiệm vụ KHCN của các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế thuộc lĩnh vực, ngành nghề chủ đạo của nền kinh tế :
1.1. Doanh nghiệp không bị sa vào vòng xoáy đầu tư ngoài ngành, kinh doanh bài bản, trụ vững qua cơn khủng hoảng kinh tế vừa qua, khá nhiều doanh nghiệp tên tuổi trong số này (như : Gốm sứ Minh Long, Bóng đèn Rạng đông, Cà phê Trung Nguyên, Sữa Vinamilk, Sản phẩm in, bao bì Mỹ Lan, Thiên Dược, Traphaco, Sài gòn Food, Tôn Hoa Sen, Thép Hòa Phát ... ) nhờ kiên định chú tâm đầu tư KHCN mà có kết quả hoạt động KH & CN chiếm ít nhất 85% doanh thu. Mặc dù vậy do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế và môi trường kinh doanh vừa qua họ cũng có khó khăn nhất định. Nhà nước cần tiếp tục hỗ trợ để số doanh nghiệp này tiếp tục phát triển tốt, tạo sức lan tỏa góp phần thay đổi diện mạo phát triển kinh tế đất nước chủ yếu dựa vào nền tảng KHCN mới;
1.2 Doanh nghiệp mới khởi nghiệp hoặc phải tái cấu trúc gặp nhiều khó khăn hơn, còn lúng túng định hướng KHCN, khó khẳng định vị thế, thị phần, thị trường, khó nắm bắt cơ hội, thời cơ, khó vượt qua nhiều thách thức hội nhập, mở cửa thị trường theo các lộ trình AFTA, WTO, TPP ... nhưng nằm trong định hướng tạo đà phát triển bền vững của nền kinh tế (như : cơ khí, tự động hóa, hóa chất, thông tin truyền thông , công nghệ sinh học, vật liệu mới, bảo vệ môi trường, năng lượng mới ...) cần nhanh chóng hỗ trợ để trở thành doanh nghiệp KHCN, được hưởng đầy đủ các ưu đãi của Nhà nước mới có thể phát triển được;
2. Cần đánh giá đúng nguyên nhân thành bại, khuyến khích, hỗ trợ thiết thực hơn nữa qua góc độ thực hiện nhiệm vụ KHCN của các doanh nghiệp thuộc các ngành CN hỗ trợ (chú yếu là SMEs), khôi phục nhanh động lực tăng trưởng kinh tế này:
2.1. Phát triển công nghiệp hỗ trợ không chỉ cần vốn vay ưu đãi, chính sách thuế hấp dẫn hay mặt bằng sản xuất phù hợp, mà còn rất cần sự hỗ trợ đúng đắn của KHCN. Chúng ta có khá nhiều ngành, lĩnh vực vươn lên phát triển tầm khu vực, vừa qua rõ hơn cả là khu vực doanh nghiệp FDI, như : tập đoàn Samsung sản xuất máy di động ở Bắc Ninh dẫn theo khoảng 80 công ty vệ tinh, tạo sự khác biệt giữa giá trị sản phẩm xuất khẩu và linh kiện lên tới gần 10 tỷ USD. Theo đó sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam bắt đầu hình thành ngành công nghiệp thực thụ;
2.2. Phát triển công nghiệp hỗ trợ thường nhờ các “cú hích” từ dòng vốn FDI, nhưng phải với tỷ lệ nội địa hóa cao. Hơn 20 năm qua có nhiều mong muốn thúc đẩy các ngành sản xuất nguyên liệu, linh kiện, phụ kiện và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh mạnh. Nhưng chỉ mới tạm thành công ở một số nhóm sản phẩm : xe máy, máy giặt, máy in (bình quân tỷ lệ nội địa hóa 70-80%). Trong khi những ngành phụ trợ Việt Nam muốn phát triển, như : ô tô, dệt may, da giày, nhựa, cơ khí chế tạo ... thì coi như chưa đạt kỳ vọng, nếu không muốn nói nền sản xuất ta còn chưa thoát “kiếp gia công” cho nước ngoài, bất kể Chính phủ có nhiều chính sách (kể cả liên quan KHCN) để khuyến khích thúc đẩy;
2.3. Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngoài yếu tố KHCN thì sự nhất quán, ổn định lâu dài về các chính sách với cơ chế linh hoạt của Nhà nước là hết sức quan trọng. Ngay từ khâu cấp giấy phép đầu tư cho các doanh nghiệp FDI đã cần phải tính đến hiệu ứng cần thiết phát triển công nghệ phụ trợ tỷ lệ nội địa hóa cao, đáp ứng nhu cầu sản lượng lớn, tác động và kiểm soát được quyết định mua nguyên vật liệu, linh kiện và phụ kiện của chủ doanh nghiệp. Nếu làm được như vậy Việt Nam giành thế chủ động quản lý các nhà đầu tư nước ngoài ngay từ khâu hoạch định chiến lược đầu tư và kinh doanh lâu dài, góp sức xây dựng ngành CN phụ trợ ở Việt Nam;
2.4. Phát triển công nghiệp hỗ trợ của Chính phủ hướng tới các SMEs nên cần nhanh chóng rút ngắn khoảng cách thua kém về KHCN cho họ thì mới gia nhập được “sân chơi” của các tập đoàn lớn nước ngoài vốn đòi hỏi yêu cầu cao về chất lượng, độ ổn định nguyên liệu, linh kiện “đầu vào”, cũng như tiêu chí, tiêu chuẩn về điều kiện lao động, mặt bằng sản xuất, quản trị doanh nghiệp ... Cần sớm tạo nhiều điều kiện hơn nữa thành lập nhanh, nhiều các doanh nghiệp KHCN là SMEs hoặc đã qua “vườn ươm” dưới sự “bảo mẫu” của nhà đầu tư nước ngoài hoặc được đầu tư nhận chuyển giao với giá “mềm” các bí quyết công nghệ, bản quyền thiết kế ... từ kho “phát minh, sáng chế, sở hữu trí tuệ” của Bộ KHCN. Vì lâu nay hầu như doanh nghiệp ta chỉ mua được công nghệ đi kèm thiết bị của nước ngoài, kiểu “bia kèm lạc”; nhiều trường hợp khó tránh được “của rẻ là của ôi”, bị lạc hậu nhanh chóng và biến đất nước thành bãi thải “công nghệ” của nước ngoài;
3. Cần đánh giá đúng nguyên nhân thành bại, khuyến khích, hỗ trợ thiết thực hơn nữa qua góc độ thực hiện nhiệm vụ KHCN của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân, gồm các SME và các tổ chức kinh tế khác:
3.1. Qua 05 năm thực hiện Nghị quyết TW 7 (Khóa X) về tam nông, có nhiều kết quả ấn tượng trong nghiên cứu ứng dụng KHCN vào phát triển nông nghiệp (nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới cho năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn, cạnh tranh được nhập ngoại ...). Một số mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới. Tuy nhiên có tình trạng lượng đáng mừng, chất hạn chế, được mùa thì mất giá, được giá thì mất mùa, đối mặt nhiều sản phẩm cạnh tranh giá thấp bên ngoài tràn vào;
3.2. Phát triển DN KHCN trong nông nghiệp phải định hướng kiên trì, quyết liệt thoát khỏi sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, nâng nhanh hàm lượng KHCN trong giá trị sản phẩm mới cạnh tranh được trên thị trường thế giới, có chính sách thu hút nhiều hơn các doanh nghiệp, doanh nhân đầu tư vào các dự án sản xuất nông phẩm công nghệ cao; kiện toàn hiệu quả mối liên kết 04 nhà – nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp;
3.3. Phát triển DN KHCN trong nông nghiệp phải dựa nền tảng cơ sở hạ tầng nông thôn thuận lợi, chú trọng phát triển cơ giới hóa trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông phẩm, cần có chính sách ưu đãi với nhiều hình thức thông thoáng (tài chính, tín dụng, bảo lãnh, bảo hiểm, quĩ đầu tư đổi mới KHCN ...) giúp nông dân, doanh nghiệp trong nông nghiệp đủ điều kiện đổi mới công nghệ, MMTB nông nghiệp nhằm giảm bớt tổn thất trong quá trình thu hoạch, tăng giá trị qua chế biến và tận dụng chế, phụ phẩm sau thu hoạch;
3.4. Phát triển DN KHCN trong nông nghiệp phải được nâng cao hơn nữa tỷ trọng đầu tư kinh phí từ ngân sách và thu hút các nguồn lực khác dành cho nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào nông nghiệp một cách tập trung, trọng tâm, trọng điểm cho mục tiêu hình thành các chuỗi giá trị gia tăng tối ưu từ nghiên cứu tới sản phẩm cuối cùng; tăng cường hơn nữa sự liên kết giữa giới khoa học với doanh nghiệp, nông dân và thị trường; ưu tiên hỗ trợ các mô hình tiên tiến trong nông nghiệp có tác động lan tỏa, sâu rộng cải thiện nhanh chóng đời sống của người thu nhập thấp, yếu thế trong xã hội, đồng thời đặc biệt khuyến khích sự chủ động, sáng tạo trong sản xuất hàng nông phẩm xuất khẩu có giá trị cao;
| Theo quan điểm Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn (Bộ NN&PTNT) trong KHCN vai trò con người làm khoa học là quan trọng nên cần đầu tư để các nhà khoa học làm giàu được bằng trí tuệ của họ thì mới có thị trường KHCN hoàn chỉnh; |
4. Cơ chế, chính sách phát triển KHCN phải đồng bộ, khép kín, triển khai quyết liệt, lộ trình phù hợp kết hợp tăng cường vai trò của Bộ KHCN với chế tài đủ mạnh nhằm sớm ngăn chặn và chấm dứt tình trạng các doanh nghiệp dễ dàng nhập khẩu công nghệ, thiết bị lạc hậu; cần thiết Nhà nước có biện pháp hỗ trợ kinh phí và bằng cơ chế mềm dẻo, linh hoạt giúp doanh nghiệp từ bỏ MMTB, CN cũ, lạc hậu thay thế mới từng bước đến toàn bộ, kết hợp phá bỏ với di dời sang địa điểm qui hoạch mới theo cụm, khu CN ... đảm bảo vấn đề môi trường, an sinh xã hội;
5. Cơ chế, chính sách phát triển KHCN phải hướng vào doanh nghiệp là trung tâm mọi đổi mới sáng tạo, đồng thời tạo ngay điều kiện để các nhà khoa học “sống khỏe, sống đàng hoàng” với các “đề tài nghiên cứu” được “thương mại hóa” thông qua hình thức “đơn đặt hàng” của doanh nghiệp; gắn kết mọi sản phẩm KHCN với thị trường “đầu ra” có địa chỉ cụ thể, có tính ổn định bền vững lâu dài; chú trọng hỗ trợ phát huy các mô hình sản xuất của DN KHCN thông qua lực lượng tài trợ mạnh và bao tiêu sản phẩm chắc chắn;
6. Cơ chế, chính sách phát triển KHCN cần nhất quán, ổn định lâu dài, tránh dẫm đạp chồng chéo “ một người nhấn ga, nhiều người cắt côn, đạp phanh”; cần hướng tháo gỡ nhắm đúng chỗ “ngứa cần gãi” của doanh nghiệp hiện nay là không chỉ cần vốn vay ưu đãi, thuế hấp dẫn, mặt bằng sản xuất phù hợp, mà mọi thủ tục, cách thức triển khai về KHCN phải thông thoáng, nhanh chóng và hiệu quả đồng bộ với các chính sách của Nhà nước về sản xuất, về thị trường nội địa và XNK, cần minh bạch, công khai, rõ ràng, để doanh nghiệp không bị tăng chi phí phi kinh tế, vấp rủi ro chính sách, hoặc bị “chết oan” do chính sách thay đổi đột ngột;
7. Tiếp tục xã hội hóa thu hút mọi nguồn lực của mọi thành phần kinh tế xã hội, gồm cả trong và ngoài nước vào phát triển KHCN, bằng chính sách linh hoạt và thông qua các hình thức khác nhau để “thương mại hóa” các sản phẩm KHCN, chẳng hạn : thể chế hóa việc tổ chức đấu thầu ý tưởng , sáng kiến, phát minh, sáng chế, mua bán bản quyền kỹ thuật, bản quyền sở hữu trí tuệ, phát triển các hình thức chợ công nghệ, đa dạng hóa “vốn hóa” các sản phẩm trí tuệ ...;
8. Hạn chế, thu hẹp dần đến chấm dứt tổ chức triển khai nhiệm vụ KHCN công nghệ mang nặng tính thủ tục hành chính, thay thế bằng các sắc luật về thuế, định mức kinh tế kỹ thuật, đấu thầu, thuê mướn KHCN, tự khai báo đăng ký điều kiện hỗ trợ tài chính, tín dụng, bảo lãnh, bảo hiểm ... và hệ thống các tiêu chí, tiêu chuẩn pháp qui về KHCN để buộc tất cả mọi lực lượng xã hội phải tuân thủ, kèm theo đó là các chế tài răn đe, trừng phạt hữu hiệu nếu sai phạm, trục lợi; tăng cường vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của Bộ KHCN trong việc cấp phép thành lập mới DN, xử lý các DN sản xuất gây hại môi trường, thẩm định các dự án đầu tư XDCB, gồm cả nhập khẩu MMTB và CN;
9. Cần tiếp tục đổi mới để các DN KHCN dễ dàng tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ phù hợp, như : tín dụng, bảo lãnh tín dụng có ưu đãi (Quyết định số 58/2013/TTg) thông qua VDB, các NHTM, hay tài trợ không hoàn lại từ Quĩ phát triển KH & CN quốc gia (Thông tư số 15/2011/TT-BTC), Quĩ đổi mới KH & CN (Quyết định 1051/QD-TTg/2013), tài trợ hoàn lại từ Quĩ phát triển SMEs (Quyết định số 601/QĐ-TTg/2013), Quĩ hỗ trợ nông dân vay vốn ko lãi nhân rộng các mô hình kinh tế, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật (Thông tư số 2013/TT-BTC/2013), chưa kể các Quĩ trợ giúp kỹ thuật của cộng đồng tài chính quốc tế (VBCF ...), Quĩ đầu tư mạo hiểm vào KHCN sắp ra đời ...
Tóm lại, cùng với nỗ lực trước mắt kiểm soát để ổn định vĩ mô của nền kinh tế, sớm thoát nhanh khỏi đáy khủng hoảng, từng bước giải quyết 04 trụ cột của nền kinh tế (cải cách thể chế; tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện cơ sở hạ tầng), chú trọng tái khởi động 04 động lực tăng trưởng nền kinh tế (như đã nêu); thì tiếp tục đổi mới, kiện toàn cơ chế, chính sách phát triển KHCN với 09 nhóm giải pháp nêu trên được xem là một trong những điều kiện quyết định kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững thời gian tới của nước ta.
TS. Phạm Ngọc Long
Viện trưởng Viện KH Quản trị DNNVV - Cell: 0948586668;
Viện trưởng Viện KH Quản trị DNNVV - Cell: 0948586668;

