HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM.
A- A A+ |

Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp năm 2014

(VINASME) - Sáng nay ngày 28/4 tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp năm 2014. Tham dự Hội nghị có các Phó Thủ tướng: Nguyễn Xuân Phúc, Hoàng Trung Hải, Vũ Văn Ninh;

>> Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp năm 2014


(VINASME) - Sáng nay ngày 28/4 tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp năm 2014.
Tham dự Hội nghị có các Phó Thủ tướng: Nguyễn Xuân Phúc, Hoàng Trung Hải, Vũ Văn Ninh;  


Các Bộ trưởng, lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương, địa phương và trên địa bàn Hà Nội; Các Hiệp hội, Hội doanh nghiệp và hơn 200 doanh nhân đại diện cho các doanh nghiệp trong cả nước.


Về phía  Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Việt Nam có đồng chí Tô Hoài Nam – Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký, đồng chí Nguyễn Văn Từ Chánh Văn phòng, đồng chí Phạm Ngọc Long Viện trưởng Viện khoa học quản trị DNNVV.

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, Hội nghị nhằm đánh giá tình hình phát triển doanh nghiệp, những mặt thuận lợi, mặt tốt, mặt làm được, đồng thời chỉ rõ những khó khăn, hạn chế, vướng mắc. 

Trên cơ sở đó, Chính phủ cùng với cộng đồng doanh nghiệp cùng bàn thảo và đưa ra những giải pháp cụ thể, thiết thực với mục tiêu phát huy tối đa những thuận lợi, tạo mọi thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả... nhằm đóng góp vào phát triển chung của nền kinh tế đất nước.

Tại Hội nghị trong phần phát biểu, đại diện nhiều Hiệp hội, Hội doanh nghiệp, doanh nhân đã đề cập tới những bất cập, nghịch lý trong quá trình sản xuất, kinh doanh, khi phải tiếp xúc với các cơ quan quản lý, những người có chức quyền.

Kết thúc Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng biểu dương, đánh giá cao sự phấn đấu, nỗ lực và những đóng góp hết sức quan trọng của cộng đồng doanh nghiệp (DN) đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội đất nước thời gian qua.

Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhìn lại hơn 3 năm qua, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức do tác động của khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, song với nỗ lực chung của cả nước, chúng ta đã cơ bản thực hiện được mục tiêu tổng quát đề ra cho kế hoạch 5 năm 2011-2015. Nổi bật là, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý, năm sau cao hơn năm trước; an sinh xã hội được đảm bảo; chính trị - xã hội ổn định; đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện; an ninh quốc phòng được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Những thành quả đạt được nêu trên có sự đóng góp quan trọng của cộng đồng DN, với tư cách là lực lượng sản xuất chủ yếu của nền kinh tế.
Tuy nhiên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng chỉ ra những khó khăn, tồn tại, hạn chế của DN, trong đó nổi lên là số lượng DN còn ít so với quy mô dân số; quy mô DN còn nhỏ (97-98% là DN vừa và nhỏ); vốn ít, sử dụng lao động chưa nhiều; sức cạnh tranh của DN tuy có được nâng lên nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu trong khi môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt; năng lực quản trị còn nhiều hạn chế; môi trường kinh doanh tuy được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc cần phải được cải thiện;...

Từ những phân tích nêu trên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị các bộ, ngành, địa phương cùng cộng đồng DN, các hiệp hội chung sức, chung lòng thực hiện tốt những nhiệm vụ trọng tâm. 

Theo đó, đặc biệt quan tâm tập trung cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, bởi đây là yếu tố mang tính chất quyết định. Muốn làm được điều này, trước hết phải đảm bảo được sự ổn định chính trị-xã hội; giữ ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường tính ổn định kinh tế vĩ mô theo hướng ngày càng vững chắc để cộng đồng DN yên tâm hơn trong phát triển sản xuất, kinh doanh; thực hiện hiệu quả các giải pháp bảo đảm cho tăng trưởng kinh tế, vì có tăng trưởng kinh tế mới tạo điều kiện cho DN phát triển; hết sức quan tâm tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, đảm bảo tự do kinh doanh; DN được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm; thực hiện công khai, minh bạch, bình đẳng trong kinh doanh; quan tâm cải cách thủ tục hành chính, nhất là thủ tục về đăng ký thành lập DN, thuế, hải quan, đất đai, thủ tục thanh tra, kiểm tra.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh: “Chính phủ luôn đặc biệt quan tâm tập trung hoàn thiện thể chế thị trường, xây dựng cơ chế, chính sách; cải cách hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính; yêu cầu các cơ quan chức năng rà soát lại các thủ tục thanh tra, kiểm tra nhằm cắt giảm tối đa phiền hà, qua đó tạo điều kiện thuận lợi nhất cho DN phát triển sản xuất, kinh doanh”.
Liên quan đến cải cách thủ tục hành chính, Thủ tướng cho biết Chính phủ đang tích cực chỉ đạo thực hiện nâng cao đạo đức phục vụ của cán bộ, công chức đối với DN, đối với nhân dân.

Thủ tướng chỉ đạo ngành Ngân hàng tiếp tục tạo mọi điều kiện thuận lợi để DN tiếp cận được tín dụng; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo cụ thể việc tạo điều kiện tối đa cho DN, đồng thời phải bảo đảm được tín dụng, chăm lo phát triển thị trường vốn, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa ngân hàng và DN. Đặc biệt, quan tâm đến chính sách hỗ trợ tín dụng cho DNNVV, sẽ sớm đưa quỹ hỗ trợ phát triển DNNVV vào hoạt động.

Khẳng định Chính phủ sẽ tiếp tục ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ DN, Thủ tướng cũng đề nghị các DN phải hết sức nỗ lực vươn lên, trong đó cần đặc biệt lưu ý tái cơ cấu trong điều kiện hội nhập, cạnh tranh để hoạt động hiệu quả hơn, năng suất lao động cao hơn, chi phí thấp hơn, sức cạnh tranh cao hơn. Trong tái cơ cấu, cần hết sức chú ý ứng dụng mạnh khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực quản trị, từ đó nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị các DN, hiệp hội phối hợp tốt với các cơ quan chức năng trong hoạt động phòng chống buôn bán hàng lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, bởi đây là những hành động theo Thủ tướng là “phá hoại sản xuất ghê gớm”, đồng thời mong muốn DN đóng góp tích cực vào hoạt động tìm kiếm, mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài; quan tâm xây dựng văn hóa DN, nhất là văn hóa ứng xử với người lao động và nghiêm túc thực hiện các chính sách, quy định của Nhà nước;...

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thêm một lần nữa khẳng định: “Chính phủ sẽ làm hết sức mình, tạo điều kiện thuận lợi nhất để cộng đồng DN với tư cách là lực lượng sản xuất chủ yếu của nền kinh tế phát triển, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Điều này vừa để cho DN thành công, vừa để đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội chung của đất nước; rất mong cộng đồng DN nỗ lực phát huy những kết quả, thành tựu đạt được, ra sức khắc phục những khó khăn, thách thức để thành công”.

Thủ tướng cũng cho biết sau Hội nghị này, Văn phòng Chính phủ sẽ chuyển tất cả các kiến nghị của cộng đồng DN đến từng bộ, ngành liên quan để xử lý.

Thủ tướng yêu cầu các Bộ trưởng theo thẩm quyền, nhiệm vụ được giao xem xét xử lý, trả lời tất cả các kiến nghị của DN trên tinh thần hết sức ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho DN thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh hiệu quả, bền vững; giao Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp các ý kiến, kiến nghị tại Hội nghị, dự thảo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ để giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành, địa phương thực hiện các nhiệm vụ cần thiết theo chức trách của mình nhằm tạo mọi thuận lợi cho cộng đồng DN tiếp tục phát triển.
 
Tham dự Hội nghị, với tư cách là đại diện cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa trong cả nước, đồng chí Tô Hoài Nam - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội DNNVV Việt Nam đã có bài phát biểu sâu sắc về thực trạng DNNVV tiếp cận tín dụng ngân hàng và đã nhận được sự đồng thuận, nhất trí cao từ đồng chí Nguyễn Văn Bình - Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng như các đại biểu tham gia Hội nghị.


Đồng chí Nguyễn Văn Bình - Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát biểu phát biểu tại Hội nghị.


Đồng chí Phạm Thị Thái - Chủ tịch Hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Nghệ An phát biểu tại Hội nghị.


Đồng chí Tô Hoài Nam - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội DNNVV Việt Nam trình bày tham luận về thực trạng DNNVV tiếp cận tín dụng ngân hàng một số khó khăn, vướng mắc hoạt động kinh doanh của các SMEs - kiến nghị một số giải pháp tháo gỡ.

Sau đây, VINASME xin trích một số nội dung bài phát biểu quan trọng này.

Kính thưa Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
Kính thưa các Phó Thủ tướng Chính phủ
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo các bộ ngành và Hiệp hội
Thưa các đại biểu và các doanh nhân
 
“... Khu vực DNNVV ngày càng đóng vai trò tích cực là 01 trong 04 động lực quyết định, có tốc độ phát triển nhanh nhất, nhân tố chủ đạo về tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, góp phần quan trọng trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội của đất nước. Hiện nay, cả nước có khoảng trên 500.000 DNNVV, chiếm 97,5 % tổng số doanh nghiệp đang hoạt động thực tế. (Trong đó:  Doanh nghiệp vừa chiếm 2,2%, Doanh nghiệp nhỏ chiếm 29,6%,  Doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm 65,7%). Tổng số vốn đăng ký khoảng 121 tỷ USD chiếm 30%  TS  vốn đăng ký của các DN. Các DNNVV hoạt động chủ yếu lĩnh vực sản xuất chế biến, xây dựng, cơ khí nhỏ, thương mại và dịch vụ. Các DNNVV tuy đông về số lượng, nhưng còn yếu kém về thực lực tài chính, qui mô vốn nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, mặc dù hiệu quả hoạt động có thời kỳ khá cao so loại hình DN khác (trước 2010).

 DNNVV hầu hết sử dụng nguyên liệu sẵn có, có quy mô nhỏ nên dễ thích nghi với sự biến động của thị trường hơn là các DN sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và có quy mô lớn. Các DNNVV còn góp phần đáng kể cân bằng ngoại tệ thông qua xuất khẩu, khôi phục và giữ gìn phát triển các làng nghề thủ công truyền thống, bước đầu tham gia vào quá trình hình thành mối liên kết DNNVV với các doanh nghiệp lớn.
  Hàng năm các DNNVV đóng góp khoảng 40% GDP; 30% thu nộp NSNN; 33% giá trị sản lượng công nghiệp; 30% giá trị hàng hóa xuất khẩu và thu hút 51% lực lượng lao động của cả nước; Là khu vực đóng góp rất quan trọngtrong việc đảm bảo an sinh xã hội và việc làm đặc biệt là lao động chưa qua đào tạo, vùng sâu vùng xa...”
         .......
  “... Thời gian qua, được sự quan tâm của Chính phủ nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách để hỗ trợ DNNVV tiếp cận vốn tín dụng bước đầu đạt đã có những kết quả tích cực, nhưng chưa đủ lực tác động lan tỏa sâu rộng, làm thay đổi cục diện tình hình, trong đó hạn chế chủ yếu như sau:
1. Tỷ lệ tiếp cận vay và được vay thấp, tỷ lệ nợ xấu tăng nhanh, cạn kiệt TSĐB :
Chỉ có khoảng 32,38% số doanh nghiệp cho biết có khả năng tiếp cận và được vay vốn thường xuyên; 35,24% phản ảnh là khó tiếp cận; số còn lại cho biết không thể tiếp cận.
Việc tiếp cận nguồn vốn khác (NHCSXH, quỹ bình ổn giá ... ) cũng gặp khó khăn. Chỉ có 48,65% số doanh nghiệp có khả năng tiếp cận, 30,43% số doanh nghiệp khó tiếp cận và 20,92% số doanh nghiệp không tiếp cận được.
Kênh huy động vốn khác trên thị trường như phát hành cổ phiếu, trái phiếu hoặc tự huy động vốn thì phần lớn các DNNVV thường không có đủ điều kiện và uy tín.
Tỷ trọng dư nợ 21,4% toàn nền kinh tế  (quá thấp); khoảng 24,4% số DNNVV được vay vốn tín dụng (quá thấp); gần 70% là vay ngắn hạn (tỷ trọng vay đổi mới công nghệ thấp); gần 90% vay nội tệ; tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ xu hướng tăng.
Tổng giá trị TSĐB lại tăng bình quân 7% suốt trong kỳ và tỷ trọng TSĐB so tổng dư nợ tăng đáng kể (2011 là 161%; 2012 là 164%; và tháng 9/2013 là 178%). Phần lớn TSĐB thường là bất động sản, bị giảm giá lớn (20%-50%), doanh nghiệp phải bổ sung thêm TSĐB để được duy trì hạn mức hoặc được vay mới đay là điều kiện rất khó đạt được vì phần lớn tài sản đã thế chấp hết cho ngân hàng.
2. Tỷ lệ tiếp cận và được bảo lãnh rất thấp, tỷ lệ rủi ro về bảo lãnh cao:
  Mặc dù Ngân hàng Phát triển Việt Nam  đã có nhiều cố gắng nhưng tỷ lệ DNNVV được bảo lãnh vay vốn từ  Ngân hàng Phát triển Việt Nam vẫn thấp cả về số lượng cũng như giá trị bảo lãnh. Tỷ lệ rủi ro bảo lãnh cao 26,96%, tỷ lệ từ chối trả thay của Ngân hàng Phát triển Việt Nam cũng khá cao 18,63%  là nguyên nhân của tỷ lệ DNNVV tiếp cận tín dụng của các NHTM thông qua bảo lãnh của Ngân hàng Phát triển Việt Nam còn hạn chế;  
            Các Quỹ bảo lãnh tín dụng tại địa phương hoạt đông cũng rất hạn chế nhiều DNNVV phản ảnh vẫn khó tiếp cận, không hy vọng được vay vốn thông qua quỹ bảo lãnh tín dụng, vì hoặc là rất chậm triển khai hoặc là vẫn trở ngại ở thủ tục thẩm định, phê duyệt bảo lãnh không khác gì NHTM vẫn đang làm khi xem xét cho vay khách hàng thông thường. 
            IV.  Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tiếp cận tín dụng khó khăn của DNNVV
1.   Ba(03) nguyên nhân sâu xa :
            Thứ nhất :  Sự lúng túng, chậm trễ tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và cải cách thể chế làm giảm nhiều hiệu quả thực thi cụ thể chương trình các chương trình trợ giúp phát triển DNNVV của Chỉnh phủ.
            Thứ hai:  khu vực DNNVV nhìn chung trong vòng 05 năm gần đây so một số loại hình doanh nghiệp khác, dần yếu kém về chất lượng và thua kém về hiệu quả hoạt động xét dưới góc độ năng lực cạnh tranh và hiệu quả quản lý. Theo đó, quy mô của các DNNVV có xu hướng nhỏ dần đi.
            Thứ ba:  Việc chậm tháo gỡ các khăn chủ yếu của DNNVV về thị trường, đất đai, vốn ưu đãi, công nghệ, đào tạo và quản lý  là trở ngại có tính chất dây truyền cho việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của các DNNVV.
2.   Bảy(07) nguyên nhân trực tiếp :
Một là, các NHTM thận trọng trong việc cấp vốn tín dụng cho các DNNVV.
Hai là,  thủ tục, điều kiện tín dụng vẫn còn phức tạp và quá sức đối với doanh nghiệp, khó đáp ứng được điều kiện tín dụng, nhất là yêu cầu về TSĐB và hệ số xếp hạng khách hàng khắt khe của ngân hàng;
Ba là, chính sách tín dụng của hầu hết các NHTM hiện nay còn xem nhẹ thậm chí có nơi, có lúc “bỏ trống” đối tượng doanh nghiệp mới khởi nghiệp, doanh nghiệp thuộc dạng KH & CN, nhất là doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao, kể cả doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp tái thiết sau giải thể, phá sản;
Bốn là, chính sách mới về bảo lãnh tín dụng  cho DNNVV vẫn còn nhiều hạn chế cả về đối tượng, phạm vi, lĩnh vực được bảo lãnh cũng như cơ chế, phương thức bảo lãnh. Thủ tục, điều kiện để được bảo lãnh về cơ bản áp dụng không khác qui trình thẩm định, xét duyệt tín dụng trực tiếp của các NHTM.
Năm là, mặc dù mặt bằng lãi suất chung có giảm từ cuối năm 2011 đến nay (như NHNN công bố), nhưng vẫn còn cao so với khả năng sinh lời của doanh nghiệp, lãi xuất của nợ cũ còn quá cao nhưng chưa được giảm nhiều. 
Sáu là, sự phối hợp về chính sách của các bộ, ngành liên quan còn thiếu đồng bộ, chưa chặt chẽ. Sự chậm trễ đưa vào hoạt động các quỹ hỗ trợ phát triển DNNVV, quỹ bảo lãnh tín dụng và các tổ chức tài chính vi mô làm tăng thêm số doanh hoạt động cầm chừng, ngưng hoạt động, giải thể, phá sản.
Bảy là, hoạt động trợ giúp phát triển DNNVV đối với các cơ quan quản lý và các cấp hiệp hội doanh nghiệp thường gặp vướng mắc khi triển khai các chủ trương, chính sách của Nhà nước đặc biệt là về chính sách tài chính và công tác pháp chế.    
V.  Đề xuất kiến nghị, giải pháp tháo gỡ khó khăn :
1. Quan điểm chung :
Một là, do công nghiệp hỗ trợ của chúng ta “kém” nên về cơ bản không phát triển được thị trường đầu ra cho khoa học & công nghệ, lãng phí tài nguyên chất xám, lao động kỹ thuật công nghệ kém phát triển, nên ngày càng phụ thuộc công nghệ nước ngoài, theo đó Việt Nam khó thoát tình trạng gia công dai dẳng.

Hai là, hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài lâu nay kém, tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm thấp, chủ yếu là sản xuất gia công, lắp ráp, nhập khẩu mọi linh kiện, phụ tùng, nên xuất khẩu tăng bao nhiêu, nhập khẩu tăng bấy nhiêu, giá trị gia tăng hàng xuất khẩu thấp, làm ra bao nhiêu chỉ nước ngoài hưởng lợi nhiều.

Ba là, kinh nghiệm thế giới đã cho thấy công nghiệp hỗ trợ chú yếu do khu vực DNNVV đảm nhiệm. Hiện các DNNVV nước ta do thiếu thị trường, thông tin, vốn, kỹ thuật,... nên các DNNVV rất khó phát triển. Tuy nhiên, chúng ta đều biết trong bối cảnh hiện nay và với chục năm sau thì con đường phát triển tối ưu cho DNNVV là tham gia vào hệ thống cung cấp theo chuổi sản phẩm có giá trị gia tăng toàn cầu và chỉ khi công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam phát triển thì chúng ta mới giành được lợi thế cạnh tranh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Vì vậy, khu vực DNNVV cần sớm được hồi phục, phát triển theo lộ trình và mục tiêu tập trung vào các ngành hàng thuộc lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp KH & CN, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CN cao, doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị gia tăng khu vực và toàn cầu, doanh nghiệp phát triển mạng lưới thương mại, dịch vụ bán lẻ nội địa và cụm liên kết ngành ... Chú trọng bảo đảm tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Bốn là , các DNNVV có qui mô vốn thấp, tổng tài sản sinh lời thấp, khó có mức doanh thu đủ lớn để có thể “hấp dẫn” ngân hàng cho vay, cho nên cần đổi mới cách tiếp cận phù hợp hơn trong hoạt động tín dụng ngân hàng theo hướng cho vay qua doanh nghiệp “đầu mối” liên kết nghiên cứu - sản xuất - chế biến - tiêu thụ(liên kết ngành), hoặc theo các mô hình tín dụng bảo lãnh “trọn gói” không cần TSĐB, mô hình tín dụng “kích cầu” có trọng tâm, trọng điểm của Chính phủ ; hiện nay rất cần các nguồn vốn đa dạng được huy động tập trung trong khuôn khổ một định chế tài chính đặc thù, khác biệt nhằm hỗ trợ chuyên biệt cho các DNNVV, giúp họ có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay với chi phí thấp, mà không tăng gánh nặng “bao cấp“ của ngân sách ( Chính phủ hậu thuẫn chủ yếu bằng cơ chế, chính sách).

Năm là, để giải quyết vấn đề các DNNVV khó tiếp cận tín dụng ngân hàng không thể chỉ “khoanh gọn” trong mối quan hệ ngân hàng doanh nghiệp, mà phải giải bài toán về thị trường, đất đai, vốn ưu đãi, công nghệ, đào tạo và quản lý trên nền tảng tháo gỡ rào cản thể chế và minh bạch hóa thông tin, giúp tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, thông thoáng cho mọi doanh nghiệp, trong đó có DNNVV.    
2.      Các kiến nghị cụ thể.
            (1) Cần phải có một hạn định cuối cùng thời điểm đi vào hoạt động của các quĩ phát triển DNNVV .  Cho phép phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh tạo lập nguồn vốn hoạt động ban đầu, giảm áp lực trông chờ nguồn vốn cấp từ “ngân sách Nhà nước”;  giảm thiểu mọi rào cản TTHC của việc tiếp cận đối với DNNVV;
            (2) Đối với doanh nghiệp còn số hàng tồn kho lớn đề xuất cho khoanh nợ cũ, giảm lãi vay nợ cũ, cho vay mới với lãi suất thấp để đẩy mạnh tiêu thụ thông qua chương trình hàng đổi hàng, hướng vào chương trình xây dựng nông thôn mới; phát triển công nghiệp phụ trợ; tăng cường năng lực mạng lưới tiêu dùng vùng sâu, vùng xa;
            (3) Khuyến khích các NHTM và Quỹ tín dụng có chương trình, gói tín dụng ưu đãi cho DNNVV tham gia chuỗi sản xuất liên kết ngành, sản xuất sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, DN nông nghiệp nông thôn... được hậu thuẫn bằng cơ chế, chính sách cụ thể của Chính phủ như : giảm thuế TNDN; lãi suất tái cấp vốn từ NHNN tương ứng số tiền cho DNNVV vay, chỉ định doanh nghiệp “đầu mối” nằm trong chuỗi sản xuất ngành hàng đứng ra bảo lãnh bên thứ 3 hoặc nhận nợ;
            (4) Tăng cường các hoạt động bảo lãnh cho vay DNNVV vào một số lĩnh vực, ngành hàng ưu tiên gồm cả doanh nghiệp cung cấp nhu cầu mua sắm, tiêu dùng khu vực công, doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn ...
            (5) Khuyến khích các doanh nghiệp lớn, DNNN, DN FDI ... mua hàng hóa, vật tư từ các DNNVV và được hưởng các ưu đãi về thuế, tín dụng, ngoại tệ, xuất khẩu...
Có chính sách quy định việc tiêu dùng, mua sắm công từ các sản phẩm do các DNNVV sản xuất.
            (6) Phát triển các khu, cụm công nghiệp đầy đủ hạ tầng cho các DNNVV đủ điều kiện thuê với giá thấp hoặc  miễn tiền thuê  trong một số năm đầu, điều kiện thủ tục thuận lợi và nhanh chóng;
            (7) Phát triển kênh phân phối bán lẻ nội địa liên kết cung cấp – chế biến, sản xuất – tiêu thụ trong nước với nòng cốt là các DNNVV được ưu tiên tiếp cận kênh tín dụng qua quĩ bảo lãnh tín dụng, Quỹ Phát triển DNNVV; Các Trung tâm thương mại có tỷ lệ bán hàng sản xuất nội địa tối thiểu là 50%  được ưu đãi về thuế, phí, tín dụng ... Có những biện pháp hữu hiệu để chống           hàng lậu, hàng giả, hàng nhái nhãn mác, vi phạm bản quyền nhằm lành mạnh hóa thị trường.
            (8)Điều chỉnh bổ sung mục tiêu chương trình thực hiện Quyết định 1231/2012/CP theo hướng chú trọng đến phát triển chất lượng, như tăng về số lượng các doanh nghiệp đầu đàn trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, lĩnh vực KH & CN, DNSX sản phẩm chất lượng cao, tỷ trọng các DN có công nghệ xanh trong giá trị gia tăng thay cho việc tăng về phát triển số lượng các DNNVV với mốc một triệu DN trong 10 năm tới. Đồng thời đặc biệt chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ với nòng cốt là các DNNVV, tranh thủ thêm cơ hội phát huy lợi thế cạnh tranh quốc gia nhờ tham gia sâu vào chuổi giá trị gia tăng toàn cầu và khu vực.
            (09) Kiện toàn công tác tổ chức chỉ đạo, điều hành hoạt động trợ giúp DNNVV Thành lập Ủy ban Quốc gia về hỗ trợ phát triển DNNVV do 01 Phó thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch Ủy ban, tham gia Ủy ban gồm một số Bộ ngành và tổ chức đại diện doanh nghiệp nhằm tạo nên và đạt được sự chỉ đạo, phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ các chính sách từ nhiều bộ, ngành liên quan hỗ trợ phát triển DNNVV.
            (10) Thiết lập lộ trình xây dựng mới luật xúc tiến phát triển DNNVV, giao Bộ KH & ĐT làm đầu mối, phối hợp Bộ Tư pháp, VCCI và Hiệp hội DNNVV Việt Nam, xúc tiến thành lập Ban trù bị dự thảo chương trình xây dựng luật DNNVV để trình Chính phủ trong năm 2015;
 
            Kính thưa Thủ tướng
            Kính thưa các Đại biểu
 
            Hoạt động kinh doanh của khu vực DNNVV luôn nhận được nhiều sự chia xẻ, đồng hành hỗ trợ của cả hệ thống chính trị, cùng với năng lực nội sinh rất lớn, giai đoạn khó khăn nhất cũng đã qua, trong bối cảnh hiện nay chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để tin tưởng rằng, giai đoạn tới đây sẽ là cơ hội tốt để hồi phục sản xuất, tăng trưởng kinh doanh, định vị thương hiệu, xứng đáng vai trò, vị thế và tiềm năng của DNNVV trong nền kinh tế.
 
Trân trọng cảm ơn! ”
 
Thế Hiển (Tổng hợp)

vinasme.com.vn

Các tin khác

Tin đọc nhiều