Toàn văn tham luận của đồng chí Tô Hoài Nam - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội DNNVV Việt Nam tại Chương trình gặp gỡ doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài và doanh nhân trong nước lần thứ II
Tham luận của đồng chí Tô Hoài Nam - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội DNNVV Việt Nam trình bày tại Hội nghị Gặp gỡ doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài và doanh nhân trong nước lần 2 từ ngày 06/8-09/8/2013 tại TP Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng. VINASME xin trân trọng gửi tới quý bạn đọc nguyên văn bài tham luận quan trọng này.
Tham luận của đồng chí Tô Hoài Nam - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội DNNVV Việt Nam trình bày tại Hội nghị Gặp gỡ doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài và doanh nhân trong nước lần 2 từ ngày 06/8-09/8/2013 tại TP Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng. VINASME xin trân trọng gửi tới quý bạn đọc nguyên văn bài tham luận quan trọng này.
NHU CẦU LIÊN KẾT CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VỀ SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG VIỆT NAM
(Tham luận trình bày tại Hội nghị Gặp gỡ doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài
và doanh nhân trong nước lần 2 từ ngày 06/8-09/8/2013)
-------------------------
Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, ngày càng có đông người Việt Nam định cư ở nước ngoài học tập, làm việc và sinh sống. Với bản tính thông minh, cần cù, chịu khó, nhân ái... vai trò của người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được nâng cao trong đời sống chính trị - kinh tế - xã hội của nước sở tại. Với mong muốn đóng góp nhiều hơn cho đất nước, hằng n năm có hàng ngàn lượt trí thức, doanh nghiệp và kiều bào về nước để đầu tư sản xuất kinh doanh trên nhiều ngành, lĩnh vực, nhiều kiều bào đã thành công trong việc đưa các tiến bộ khoa học của thế giới vào áp dụng vào sản xuất kinh doanh tại Việt Nam... Đó là những đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội nói chung tại Việt Nam.
Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cùng Ủy Ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài và các cơ quan có liên quan phối hợp tổ chức Chương trình Gặp gỡ Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài và Doanh nhân trong nước, với Chủ đề: “Liên kết sức mạnh doanh nhân Việt – Cơ hội hợp tác đầu tư, kinh doanh” với mong muốn tạo nhiều điều kiện để các DN hai bên tiếp xúc, trao đổi, thông tin cho nhau và tiến tới liên kết, hợp tác trong mỗi chương trình, mỗi dự án cụ thể, để khai thác tốt hơn tiềm năng, lợi thế của mỗi bên, để không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế trên thị trường thế giới.
Buổi gặp gỡ này, cũng là dịp để chúng ta nhìn lại những công việc đã làm được, những vấn đề còn vướng mắc, khó khăn giữa 02 kỳ Gặp gỡ (lần 1 tổ chức vào năm 2011).
Thay mặt Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Việt Nam xin nhiệt liệt chúc mừng và gửi lời chào, lời chúc sức khỏe và sự thành đạt tới cộng đồng các doanh nghiệp và,
Xin được trình bày tham luận với chủ đề “Nhu cầu liên kết của các DNNVV về sản xuất và xuất khẩu hàng Việt Nam” với một số nội dung sau:
I. Một số nét khái quát về tình hình đầu tư của kiều bào và các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
Theo thống kê, hiện có khoảng 4,5 triệu người Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại 103 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó có gần 400.000 chuyên gia, trí thức có trình độ từ đại học trở lên và các chuyên gia có kỹ thuật, tay nghề giỏi đang làm việc trong các ngành khoa học và công nghệ cao (Điện tử, sinh học, vật liệu mới, tin học...) Tiềm lực kinh tế và vị thế của các DN và kiều bào ta ở nước ngoài đang ngày càng được khẳng định và ngày càng được nâng lên. Mặc dù nền kinh tế thế giới và trong nước gặp rất nhiều khó khăn – Nhất là trong năm 2012 và từ đầu năm 2013 tới nay, nhưng tình hình đầu tư của các Doanh nhân về nước vẫn tăng cả về số dự án cũng như lượng vốn đầu tư (Hiện có khoảng 3.540 dự án của kiều bào còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký khoảng 8,4 tỷ USD). Một số doanh nghiệp lớn đã khẳng định được vị thế, thương hiệu ở Việt Nam như: Vingroup, Eurowindows... Điều đó chứng tỏ rằng nhu cầu và khả năng đầu tư về nước của các doanh nhân là kiều bào còn rất lớn và có hiệu quả, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân, nên quy mô và phạm vị hợp tác, liên kết các chia sẻ về vốn, công nghệ và những tri thức, kinh nghiệm trong hoạt động xuất nhập khẩu cũng như hoạt động Thương mại thế giới... giữa kiều bào và các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các DNNVV còn ở mức khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như kỳ vọng của Chính phủ và của các bên.
Tính đến nay, cả nước có khoảng 650.000 DNNVV chiếm 97% tổng số doanh nghiệp đã thành lập. Trong đó doanh nghiệp vừa chiếm 2,2%, doanh nghiệp nhỏ chiếm 29,6%, doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm 65,7%. Với tổng số vốn đăng ký xấp xỉ 121 tỷ USD (chiếm 30% tổng số vốn đăng ký của các DN). Các DNNVV tham gia tích cực vào khu vực sản xuất chế biến, bán lẻ và dịch vụ; góp phần cân bằng ngoại tệ thông qua xuất khẩu, khôi phục và giữ gìn phát triển các làng nghề thủ công truyền thống, bước đầu tham gia vào quá trình hình thành mối liên kết DNNVV với các doanh nghiệp lớn.
Hàng năm các DNNVV đóng góp khoảng 40% tổng GDP; 33% giá trị sản lượng công nghiệp; 30 % giá trị hàng hóa xuất khẩu và thu hút 50% lực lượng lao động của cả nước. Đặc biệt là các DNNVV trong nước hầu hết sử dụng nguyên liệu sẵn có, có quy mô nhỏ nên dễ thích nghi với sự biến động của thị trường hơn là các DN sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và có quy mô lớn. Thực tế cho thấy, mặc dù trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và trong nước đang gặp rất nhiều khó khăn nhưng một số lĩnh vực vẫn duy trì nhịp độ sản xuất và xuất khẩu có bước phát triển (Nhất là sản xuất và chế biến nông sản, thực phẩm, các sản phẩm từ gỗ, hoạt động du lịch...).
Năm 2012 đánh dấu một năm thành công của xuất khẩu Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 114 tỷ USD tăng hơn 18% so với năm 2011. Trong đó điểm một số nhóm hàng chủ lực, có tỷ trọng xuất khẩu lớn là: Dệt may trên 15 tỷ USD; linh kiện điện tử 12,65 tỷ USD; Thủy sản 6,15 tỷ USD; Giầy dép 7,24 tỷ USD; sản phẩm từ gỗ 4,6 tỷ USD và cà phê 3,7 tỷ USD...
Nhận thức sâu sắc vai trò và tầm quan trọng của các DNNVV đối với tình hình kinh tế, xã hội của đất nước, thời gian qua Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách để hỗ trợ, khuyến khích phát triển hệ thống các DNNVV một cách khá đồng bộ. Trong đó, một số chính sách quan trọng như Nghị định số 56/NĐ-CP ngày 30/6/2009, Quyết định 1231/QĐ-TTg ngày 07/9/2012 về Kế hoạch phát triển DNNVV và mới đây Quốc hội đã điều chỉnh luật thuế thu nhập cho các DN ..., qua đó đã đạt được những kết quả tích cực, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc cải thiện môi trường pháp lý, môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng thuận lợi, đặc biệt là các giải pháp nhằm đơn giản hóa các quy định về đăng ký kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa, đầu tư phát triển. Từng bước khắc phục và hạn chế tính chủ quan, duy ý chí, vô cảm của cán bộ công chức trong việc hướng dẫn, giải quyết nhu cầu của các doanh nghiệp về tiếp cận tài chính, đất đai, thị trường, khoa học - công nghệ.... Điều đó, đã cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp đặc biệt là DNNVV phát triển.
II. Hợp tác, liên kết giữa các doanh nhân là kiều bào và các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở trong nước là cơ hội, nhu cầu đồng thời là trách nhiệm của các bên
Đã gần 27 năm, tính từ năm 1986, Việt Nam đã từng bước tham gia vào các “sân chơi” Quốc tế, trong đó có một số mốc quan trọng như: Gia nhập Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN năm 1995 ); Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC năm 1998); Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (7/2000); Tham gia tổ chức Thương mại thế giới (WTO tháng 1/ 2007) và đang đàm phán để ký hiệp định hợp tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Quá trình hội nhập sâu, rộng vào thị trường thế giới không chỉ mang lại những cơ hội, thuận lợi mà còn cả những thách thức, khó khăn đối với từng doanh nghiệp cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế. Thực tế đã chứng minh, sự phân công lao động xã hội càng sâu sắc, thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa cácdoanh nghiệp và giữa các quốc gia càng lớn. Ngày nay hội nhập và hợp tác quốc tế đang là xu hướng, là trào lưu mang tính thời đại thì có lẽ không một doanh nghiệp nào, không một quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển lại đứng ngoài cái “vòng quay” mang tính thời đại ấy.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đang diễn ra ở trong nước, từ nhu cầu và khả năng của các DNNVV, từ tiềm năng, thế mạnh về vốn, công nghệ và trình độ quản lý...của các doanh nghiệp do kiều bào ta làm chủ ở nước ngoài, đã đặt ra cho chúng ta một số suy nghĩ về điều kiện căn bản và cơ hội sau:
1. Về định hướng về xây dựng một nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Trong suốt quá trình đổi mới, vấn đề các hình thức sở hữu cùng tồn tại trong một nền kinh tế tổng thể và thống nhất luôn luôn được Đảng, nhà nước thừa nhận và đề cao trong các Văn kiện, Nghị quyết ...(trước đổi mới Nhà nước chỉ thừa nhận 02 hình thức sở hữu là sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể). Chính chủ trương nhất quán này đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong đó có các nhà đầu tư là kiều bào ta. Và đó cũng chính là yếu tố, điều kiện căn bản bền vững để kiều bào ta ở nước ngoài yên tâm khi đầu từ về quê hương.
Quá trình tham gia hội nhập vào kinh tế thế giới, buộc chúng ta phải tuân thủ các quy định, các cam kết mang tính giàng buộc của thế giới. Đó là tính công khai, minh bạch và không phân biệt đối xử...Theo đó, các doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam không phân biệt doanh nghiệp trong nước hay ngoài nước đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, thậm trí để thu hút vốn đầu tư, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài còn có phần được ưu đãi hơn các doanh nghiệp trong nước - Nhất là những ưu đãi về thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh, về thủ tục hành chính...
Mặc dù " rào cản " từ thủ tục hành chính vẫn còn là một trở ngại không nhỏ đối với các doanh nghiệp, song chúng ta cũng dễ nhận thấy là các thủ tục hành chính hiện nay đã đơn giản và thời gian đã rút ngắn hơn nhiều so với trước đây. Đó là bước tiến không thể phủ định được.
2. Tiềm năng, lợi thế và nguồn lực ở trong nước cần được đầu tư khai thác có hiệu quả.
Theo số liệu thống kê trong 08 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực bao gồm: Dệt may, dầu thô, giầy dép, thủy hải sản, điện tử- máy tính, gạo, cà phê, cao su thì có tới 1/2 là những mặt hàng nông nghiệp.
Năm 2012 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt hơn 114 tỷ USD, tăng 18,2 % so với năm 2011 (Đó là kết quả ấn tượng –Đặt trong bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới có nhiều khó khăn), và thực tế cho thấy số lượng xuất khẩu hàng nông sản (bao gồm cả lâm sản và hải sản) của Việt Nam trong vài thập niên qua thuộc nhóm các nước dẫn đầu thế giới. Tuy nhiên giá trị thu về lại đạt thấp, chưa tương xứng với giá trị thực, với vị thế và tiềm năng. Các mặt hàng dệt may và giầy dép tuy xuất khẩu có tỷ trọng cao, song lại phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu và thực hiện theo phương thức gia công, nên thiếu tính chủ động và hiệu quả cũng không cao...
Nguyên nhân thì có nhiều, song chủ yếu là vấn đề thiếu đầu tư chiều sâu, vấn đề quảng bá, tiếp thị và mặc dù hàng hóa và sản phẩm của Việt Nam đã từng bước tham gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có thể có mặt tại hệ thống bán lẻ của các nước nhập khẩu...Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ: Sản phẩm hàng hóa của ta chỉ tham gia được vào các khâu, các công đoạn có giá trị gia tăng thấp, chưa có thương hiệu, nhãn hiệu riêng và do vậy tuy có số lượng xuất khẩu lớn nhưng chưa có vị thế cao trong đàm phán và chưa có quyền quyết định những vấn đề có liên quan, nhất là quyết định về mặt giá cả.
Ngoài ra, các DNNVV còn gặp một số khó khăn chính như sau: thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh(hiện nay chỉ có 30% DNNVV vay vốn được từ các ngân hàng); khó khăn về công nghệ (khoảng 80-90% máy móc và công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp của Việt Nam là nhập khẩu và 76% từ thập niên 1980-1990); khó khăn về chất lượng nguồn nhân lực( 75% lực lượng lao động trong khu vực DNNVV tư nhân chưa qua đào tạo chuyên mô kỹ thuật)
Lời giải cho bài toán trên là vấn đề vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, và phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng, có hàm lượng chất xám cao từ những nguyên liệu là gạo, là cao su, cà phê, hải sản...., hạn chế tới mức thấp nhất xuất khẩu sản phẩm dưới dạng nguyên liệu thô. Là đầu tư mạnh mẽ cho sản xuất nguyên liệu, phụ liệu cho ngành dệt may và giầy dép. Là đầu tư bài bản để xây dựng thương hiệu, đầu tư cho thiết kế, sáng tạo mẫu mã hàng hoá...
Và nếu chúng ta muốn hàng hóa mang nhãn hiệu “made in Vietnam” hội nhập thành công vào quốc tế, thì một trong những lợi thế cực kỳ quan trọng mà chúng ta cần phải “năm lấy” đó là tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nhân là kiều bào và các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở trong nước.
III. Hiệp hội DNNVV Việt Nam với vai trò cầu nối, thúc đẩy sự hợp tác giữa các SMEs Việt Nam với các doanh nhân là người Việt Nam ở nước ngoài.
Hiệp hội DNNVV Việt Nam (VINASME) là tổ chức xã hội- nghề nghiệp cấp Quốc gia, đại diện và bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Qua hơn 8 năm thành lập và phát triển (VINASME thành lập năm 2005), được sự quan tâm giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và sự ủng hộ của cộng đồng các doanh nghiệp, đến nay VINASME đã trở thành một trong những tổ chức đại diện lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam, có hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương, với 52 hội doanh nghiệp cấp tỉnh, thành phố là thành viên. Về mặt tổ chức, các đơn vị trực thuộc gồm có cơ quan Văn phòng trung ương Hội và 4 ban chuyên môn; 3 văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh, Đã Nẵng và Đăklăk ; 02 cơ quan báo chí; 1 Viện nghiên cứu khoa học chuyên biệt dành riêng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; 10 Trung tâm sự nghiệp hỗ trợ các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Thời gian qua, VINASME đã có nhiều đề xuất các giải pháp và tổ chức các hoạt động hỗ trợ để các doanh nghiệp vượt qua các khó khăn thách thức..., vì vậy đã được nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội ghi nhận và đánh giá cao.
Hiệp hội DNNVV Việt Nam nhận thức rằng, sự liên kết, hợp tác giữa các DNNVV ở trong nước với các DN của người Việt Nam ở nước ngoài trong hoạt động đầu tư, thương mại, dịch vụ và xuất khẩu hàng hóa là rất quan trọng và cần thiết, bởi đây là cơ hội để đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ hàng hóa...qua đó có điều kiện "làm giàu" cho chính doanh nghiệp, đồng thời góp phần xây dựng quê hương và tổ quốc Việt Nam ngày càng giàu đẹp. Và để góp phần thúc đẩy mục tiêu trên Hiệp hội DNNVV Việt Nam thực hiện các hoạt động sau:
- Tiếp tục tổng hợp, nghiên cứu để tham gia xây dựng và tuyên truyền thực hiện các chính sách, pháp luật liên quan đến phát triển DNNVV, tư vấn, hỗ trợ các DNNVV phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực hội nhập quốc tế.
- Truyền thông, quảng bá về doanh nhân, doanh nghiệp là người Việt Nam ở trong và ngoài nước.
- Tư vấn, hỗ trợ các doanh nhân là người Việt Nam ở nước ngoài tìm hiểu, thực hiện pháp luật Việt Nam và khả năng, điều kiện để thực hiện công tác xúc tiến và thực hiện đầu tư tại Việt Nam.
- Xúc tiến thương mại – nhất là mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Làm cầu nối tạo dựng mối liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và xây dựng thương hiệu, xuất sứ hàng hóa.
- Tăng cường phối hợp với Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Hiệp hội doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài, với các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức trong nước và quốc tế hỗ trợ doanh nghiệp trong các lĩnh vực: Tìm hiểu và học tập những kinh nghiệm trong việc thực hiện luật thương mại quốc tế; Xúc tiến đầu tư và xúc tiến thương mại tại các nước trên thế giới; Đào tạo nguồn nhân lực; Đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia giải quyết tranh chấp thương mại...
Để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình liên hệ công tác, Hiệp hội DNNVV Việt Nam giao Văn phòng Hiệp hội làm đầu mối để tiếp nhận cũng như điều phối các hoạt động nêu trên (Địa chỉ liên hệ: Văn phòng Hiệp hội DNNVV Việt Nam: Tầng 10, KS Thể thao HACINCO, đường Lê Văn Thiêm, Q. Thanh Xuân, Hà Nôi. Điện thoại 04.35564499.
Trên đây là bài tham luận của Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam với chủ đề “ nhu cầu liên kết của các doanh nghiệp nhỏ và vừa về sản xuất và xuất khẩu hàng Việt Nam”. Hiệp hội xin trân thành cảm ơn Quý vị đại biểu đã lắng nghe và rất mong nhận được sự đồng tình, ủng hộ và các ý kiến đóng góp quý báu của Quý vị đại biểu, khách quý. Và,
Kính chúc sức khỏe quý đại biểu, khách quý;
Kính chúc các doanh nhân, doanh nghiệp hợp tác thành công;
Chúc Chương trình Giao lưu thành công tốt đẹp.
NHU CẦU LIÊN KẾT CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VỀ SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG VIỆT NAM
(Tham luận trình bày tại Hội nghị Gặp gỡ doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài
và doanh nhân trong nước lần 2 từ ngày 06/8-09/8/2013)
-------------------------
Tô Hoài Nam Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký
Hiệp hội DNNVV Việt Nam
Hiệp hội DNNVV Việt Nam
Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, ngày càng có đông người Việt Nam định cư ở nước ngoài học tập, làm việc và sinh sống. Với bản tính thông minh, cần cù, chịu khó, nhân ái... vai trò của người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được nâng cao trong đời sống chính trị - kinh tế - xã hội của nước sở tại. Với mong muốn đóng góp nhiều hơn cho đất nước, hằng n năm có hàng ngàn lượt trí thức, doanh nghiệp và kiều bào về nước để đầu tư sản xuất kinh doanh trên nhiều ngành, lĩnh vực, nhiều kiều bào đã thành công trong việc đưa các tiến bộ khoa học của thế giới vào áp dụng vào sản xuất kinh doanh tại Việt Nam... Đó là những đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội nói chung tại Việt Nam.
Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cùng Ủy Ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài và các cơ quan có liên quan phối hợp tổ chức Chương trình Gặp gỡ Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài và Doanh nhân trong nước, với Chủ đề: “Liên kết sức mạnh doanh nhân Việt – Cơ hội hợp tác đầu tư, kinh doanh” với mong muốn tạo nhiều điều kiện để các DN hai bên tiếp xúc, trao đổi, thông tin cho nhau và tiến tới liên kết, hợp tác trong mỗi chương trình, mỗi dự án cụ thể, để khai thác tốt hơn tiềm năng, lợi thế của mỗi bên, để không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế trên thị trường thế giới.
Buổi gặp gỡ này, cũng là dịp để chúng ta nhìn lại những công việc đã làm được, những vấn đề còn vướng mắc, khó khăn giữa 02 kỳ Gặp gỡ (lần 1 tổ chức vào năm 2011).
Thay mặt Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Việt Nam xin nhiệt liệt chúc mừng và gửi lời chào, lời chúc sức khỏe và sự thành đạt tới cộng đồng các doanh nghiệp và,
Xin được trình bày tham luận với chủ đề “Nhu cầu liên kết của các DNNVV về sản xuất và xuất khẩu hàng Việt Nam” với một số nội dung sau:
I. Một số nét khái quát về tình hình đầu tư của kiều bào và các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
Theo thống kê, hiện có khoảng 4,5 triệu người Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại 103 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó có gần 400.000 chuyên gia, trí thức có trình độ từ đại học trở lên và các chuyên gia có kỹ thuật, tay nghề giỏi đang làm việc trong các ngành khoa học và công nghệ cao (Điện tử, sinh học, vật liệu mới, tin học...) Tiềm lực kinh tế và vị thế của các DN và kiều bào ta ở nước ngoài đang ngày càng được khẳng định và ngày càng được nâng lên. Mặc dù nền kinh tế thế giới và trong nước gặp rất nhiều khó khăn – Nhất là trong năm 2012 và từ đầu năm 2013 tới nay, nhưng tình hình đầu tư của các Doanh nhân về nước vẫn tăng cả về số dự án cũng như lượng vốn đầu tư (Hiện có khoảng 3.540 dự án của kiều bào còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký khoảng 8,4 tỷ USD). Một số doanh nghiệp lớn đã khẳng định được vị thế, thương hiệu ở Việt Nam như: Vingroup, Eurowindows... Điều đó chứng tỏ rằng nhu cầu và khả năng đầu tư về nước của các doanh nhân là kiều bào còn rất lớn và có hiệu quả, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân, nên quy mô và phạm vị hợp tác, liên kết các chia sẻ về vốn, công nghệ và những tri thức, kinh nghiệm trong hoạt động xuất nhập khẩu cũng như hoạt động Thương mại thế giới... giữa kiều bào và các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các DNNVV còn ở mức khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như kỳ vọng của Chính phủ và của các bên.
Tính đến nay, cả nước có khoảng 650.000 DNNVV chiếm 97% tổng số doanh nghiệp đã thành lập. Trong đó doanh nghiệp vừa chiếm 2,2%, doanh nghiệp nhỏ chiếm 29,6%, doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm 65,7%. Với tổng số vốn đăng ký xấp xỉ 121 tỷ USD (chiếm 30% tổng số vốn đăng ký của các DN). Các DNNVV tham gia tích cực vào khu vực sản xuất chế biến, bán lẻ và dịch vụ; góp phần cân bằng ngoại tệ thông qua xuất khẩu, khôi phục và giữ gìn phát triển các làng nghề thủ công truyền thống, bước đầu tham gia vào quá trình hình thành mối liên kết DNNVV với các doanh nghiệp lớn.
Hàng năm các DNNVV đóng góp khoảng 40% tổng GDP; 33% giá trị sản lượng công nghiệp; 30 % giá trị hàng hóa xuất khẩu và thu hút 50% lực lượng lao động của cả nước. Đặc biệt là các DNNVV trong nước hầu hết sử dụng nguyên liệu sẵn có, có quy mô nhỏ nên dễ thích nghi với sự biến động của thị trường hơn là các DN sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và có quy mô lớn. Thực tế cho thấy, mặc dù trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và trong nước đang gặp rất nhiều khó khăn nhưng một số lĩnh vực vẫn duy trì nhịp độ sản xuất và xuất khẩu có bước phát triển (Nhất là sản xuất và chế biến nông sản, thực phẩm, các sản phẩm từ gỗ, hoạt động du lịch...).
Năm 2012 đánh dấu một năm thành công của xuất khẩu Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 114 tỷ USD tăng hơn 18% so với năm 2011. Trong đó điểm một số nhóm hàng chủ lực, có tỷ trọng xuất khẩu lớn là: Dệt may trên 15 tỷ USD; linh kiện điện tử 12,65 tỷ USD; Thủy sản 6,15 tỷ USD; Giầy dép 7,24 tỷ USD; sản phẩm từ gỗ 4,6 tỷ USD và cà phê 3,7 tỷ USD...
Nhận thức sâu sắc vai trò và tầm quan trọng của các DNNVV đối với tình hình kinh tế, xã hội của đất nước, thời gian qua Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách để hỗ trợ, khuyến khích phát triển hệ thống các DNNVV một cách khá đồng bộ. Trong đó, một số chính sách quan trọng như Nghị định số 56/NĐ-CP ngày 30/6/2009, Quyết định 1231/QĐ-TTg ngày 07/9/2012 về Kế hoạch phát triển DNNVV và mới đây Quốc hội đã điều chỉnh luật thuế thu nhập cho các DN ..., qua đó đã đạt được những kết quả tích cực, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc cải thiện môi trường pháp lý, môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng thuận lợi, đặc biệt là các giải pháp nhằm đơn giản hóa các quy định về đăng ký kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa, đầu tư phát triển. Từng bước khắc phục và hạn chế tính chủ quan, duy ý chí, vô cảm của cán bộ công chức trong việc hướng dẫn, giải quyết nhu cầu của các doanh nghiệp về tiếp cận tài chính, đất đai, thị trường, khoa học - công nghệ.... Điều đó, đã cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp đặc biệt là DNNVV phát triển.
II. Hợp tác, liên kết giữa các doanh nhân là kiều bào và các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở trong nước là cơ hội, nhu cầu đồng thời là trách nhiệm của các bên
Đã gần 27 năm, tính từ năm 1986, Việt Nam đã từng bước tham gia vào các “sân chơi” Quốc tế, trong đó có một số mốc quan trọng như: Gia nhập Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN năm 1995 ); Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC năm 1998); Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (7/2000); Tham gia tổ chức Thương mại thế giới (WTO tháng 1/ 2007) và đang đàm phán để ký hiệp định hợp tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Quá trình hội nhập sâu, rộng vào thị trường thế giới không chỉ mang lại những cơ hội, thuận lợi mà còn cả những thách thức, khó khăn đối với từng doanh nghiệp cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế. Thực tế đã chứng minh, sự phân công lao động xã hội càng sâu sắc, thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa cácdoanh nghiệp và giữa các quốc gia càng lớn. Ngày nay hội nhập và hợp tác quốc tế đang là xu hướng, là trào lưu mang tính thời đại thì có lẽ không một doanh nghiệp nào, không một quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển lại đứng ngoài cái “vòng quay” mang tính thời đại ấy.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đang diễn ra ở trong nước, từ nhu cầu và khả năng của các DNNVV, từ tiềm năng, thế mạnh về vốn, công nghệ và trình độ quản lý...của các doanh nghiệp do kiều bào ta làm chủ ở nước ngoài, đã đặt ra cho chúng ta một số suy nghĩ về điều kiện căn bản và cơ hội sau:
1. Về định hướng về xây dựng một nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Trong suốt quá trình đổi mới, vấn đề các hình thức sở hữu cùng tồn tại trong một nền kinh tế tổng thể và thống nhất luôn luôn được Đảng, nhà nước thừa nhận và đề cao trong các Văn kiện, Nghị quyết ...(trước đổi mới Nhà nước chỉ thừa nhận 02 hình thức sở hữu là sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể). Chính chủ trương nhất quán này đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong đó có các nhà đầu tư là kiều bào ta. Và đó cũng chính là yếu tố, điều kiện căn bản bền vững để kiều bào ta ở nước ngoài yên tâm khi đầu từ về quê hương.
Quá trình tham gia hội nhập vào kinh tế thế giới, buộc chúng ta phải tuân thủ các quy định, các cam kết mang tính giàng buộc của thế giới. Đó là tính công khai, minh bạch và không phân biệt đối xử...Theo đó, các doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam không phân biệt doanh nghiệp trong nước hay ngoài nước đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, thậm trí để thu hút vốn đầu tư, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài còn có phần được ưu đãi hơn các doanh nghiệp trong nước - Nhất là những ưu đãi về thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh, về thủ tục hành chính...
Mặc dù " rào cản " từ thủ tục hành chính vẫn còn là một trở ngại không nhỏ đối với các doanh nghiệp, song chúng ta cũng dễ nhận thấy là các thủ tục hành chính hiện nay đã đơn giản và thời gian đã rút ngắn hơn nhiều so với trước đây. Đó là bước tiến không thể phủ định được.
2. Tiềm năng, lợi thế và nguồn lực ở trong nước cần được đầu tư khai thác có hiệu quả.
Theo số liệu thống kê trong 08 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực bao gồm: Dệt may, dầu thô, giầy dép, thủy hải sản, điện tử- máy tính, gạo, cà phê, cao su thì có tới 1/2 là những mặt hàng nông nghiệp.
Năm 2012 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt hơn 114 tỷ USD, tăng 18,2 % so với năm 2011 (Đó là kết quả ấn tượng –Đặt trong bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới có nhiều khó khăn), và thực tế cho thấy số lượng xuất khẩu hàng nông sản (bao gồm cả lâm sản và hải sản) của Việt Nam trong vài thập niên qua thuộc nhóm các nước dẫn đầu thế giới. Tuy nhiên giá trị thu về lại đạt thấp, chưa tương xứng với giá trị thực, với vị thế và tiềm năng. Các mặt hàng dệt may và giầy dép tuy xuất khẩu có tỷ trọng cao, song lại phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu và thực hiện theo phương thức gia công, nên thiếu tính chủ động và hiệu quả cũng không cao...
Nguyên nhân thì có nhiều, song chủ yếu là vấn đề thiếu đầu tư chiều sâu, vấn đề quảng bá, tiếp thị và mặc dù hàng hóa và sản phẩm của Việt Nam đã từng bước tham gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có thể có mặt tại hệ thống bán lẻ của các nước nhập khẩu...Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ: Sản phẩm hàng hóa của ta chỉ tham gia được vào các khâu, các công đoạn có giá trị gia tăng thấp, chưa có thương hiệu, nhãn hiệu riêng và do vậy tuy có số lượng xuất khẩu lớn nhưng chưa có vị thế cao trong đàm phán và chưa có quyền quyết định những vấn đề có liên quan, nhất là quyết định về mặt giá cả.
Ngoài ra, các DNNVV còn gặp một số khó khăn chính như sau: thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh(hiện nay chỉ có 30% DNNVV vay vốn được từ các ngân hàng); khó khăn về công nghệ (khoảng 80-90% máy móc và công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp của Việt Nam là nhập khẩu và 76% từ thập niên 1980-1990); khó khăn về chất lượng nguồn nhân lực( 75% lực lượng lao động trong khu vực DNNVV tư nhân chưa qua đào tạo chuyên mô kỹ thuật)
Lời giải cho bài toán trên là vấn đề vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, và phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng, có hàm lượng chất xám cao từ những nguyên liệu là gạo, là cao su, cà phê, hải sản...., hạn chế tới mức thấp nhất xuất khẩu sản phẩm dưới dạng nguyên liệu thô. Là đầu tư mạnh mẽ cho sản xuất nguyên liệu, phụ liệu cho ngành dệt may và giầy dép. Là đầu tư bài bản để xây dựng thương hiệu, đầu tư cho thiết kế, sáng tạo mẫu mã hàng hoá...
Và nếu chúng ta muốn hàng hóa mang nhãn hiệu “made in Vietnam” hội nhập thành công vào quốc tế, thì một trong những lợi thế cực kỳ quan trọng mà chúng ta cần phải “năm lấy” đó là tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nhân là kiều bào và các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở trong nước.
III. Hiệp hội DNNVV Việt Nam với vai trò cầu nối, thúc đẩy sự hợp tác giữa các SMEs Việt Nam với các doanh nhân là người Việt Nam ở nước ngoài.
Hiệp hội DNNVV Việt Nam (VINASME) là tổ chức xã hội- nghề nghiệp cấp Quốc gia, đại diện và bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Qua hơn 8 năm thành lập và phát triển (VINASME thành lập năm 2005), được sự quan tâm giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và sự ủng hộ của cộng đồng các doanh nghiệp, đến nay VINASME đã trở thành một trong những tổ chức đại diện lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam, có hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương, với 52 hội doanh nghiệp cấp tỉnh, thành phố là thành viên. Về mặt tổ chức, các đơn vị trực thuộc gồm có cơ quan Văn phòng trung ương Hội và 4 ban chuyên môn; 3 văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh, Đã Nẵng và Đăklăk ; 02 cơ quan báo chí; 1 Viện nghiên cứu khoa học chuyên biệt dành riêng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; 10 Trung tâm sự nghiệp hỗ trợ các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Thời gian qua, VINASME đã có nhiều đề xuất các giải pháp và tổ chức các hoạt động hỗ trợ để các doanh nghiệp vượt qua các khó khăn thách thức..., vì vậy đã được nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội ghi nhận và đánh giá cao.
Hiệp hội DNNVV Việt Nam nhận thức rằng, sự liên kết, hợp tác giữa các DNNVV ở trong nước với các DN của người Việt Nam ở nước ngoài trong hoạt động đầu tư, thương mại, dịch vụ và xuất khẩu hàng hóa là rất quan trọng và cần thiết, bởi đây là cơ hội để đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ hàng hóa...qua đó có điều kiện "làm giàu" cho chính doanh nghiệp, đồng thời góp phần xây dựng quê hương và tổ quốc Việt Nam ngày càng giàu đẹp. Và để góp phần thúc đẩy mục tiêu trên Hiệp hội DNNVV Việt Nam thực hiện các hoạt động sau:
- Tiếp tục tổng hợp, nghiên cứu để tham gia xây dựng và tuyên truyền thực hiện các chính sách, pháp luật liên quan đến phát triển DNNVV, tư vấn, hỗ trợ các DNNVV phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực hội nhập quốc tế.
- Truyền thông, quảng bá về doanh nhân, doanh nghiệp là người Việt Nam ở trong và ngoài nước.
- Tư vấn, hỗ trợ các doanh nhân là người Việt Nam ở nước ngoài tìm hiểu, thực hiện pháp luật Việt Nam và khả năng, điều kiện để thực hiện công tác xúc tiến và thực hiện đầu tư tại Việt Nam.
- Xúc tiến thương mại – nhất là mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Làm cầu nối tạo dựng mối liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và xây dựng thương hiệu, xuất sứ hàng hóa.
- Tăng cường phối hợp với Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Hiệp hội doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài, với các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức trong nước và quốc tế hỗ trợ doanh nghiệp trong các lĩnh vực: Tìm hiểu và học tập những kinh nghiệm trong việc thực hiện luật thương mại quốc tế; Xúc tiến đầu tư và xúc tiến thương mại tại các nước trên thế giới; Đào tạo nguồn nhân lực; Đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia giải quyết tranh chấp thương mại...
Để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình liên hệ công tác, Hiệp hội DNNVV Việt Nam giao Văn phòng Hiệp hội làm đầu mối để tiếp nhận cũng như điều phối các hoạt động nêu trên (Địa chỉ liên hệ: Văn phòng Hiệp hội DNNVV Việt Nam: Tầng 10, KS Thể thao HACINCO, đường Lê Văn Thiêm, Q. Thanh Xuân, Hà Nôi. Điện thoại 04.35564499.
Trên đây là bài tham luận của Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam với chủ đề “ nhu cầu liên kết của các doanh nghiệp nhỏ và vừa về sản xuất và xuất khẩu hàng Việt Nam”. Hiệp hội xin trân thành cảm ơn Quý vị đại biểu đã lắng nghe và rất mong nhận được sự đồng tình, ủng hộ và các ý kiến đóng góp quý báu của Quý vị đại biểu, khách quý. Và,
Kính chúc sức khỏe quý đại biểu, khách quý;
Kính chúc các doanh nhân, doanh nghiệp hợp tác thành công;
Chúc Chương trình Giao lưu thành công tốt đẹp.
Hà nội, tháng 8 năm 2013
---------------------------------------------
---------------------------------------------
