Doanh nghiệp “chết không chôn được” vì chi phí phá sản, có vụ kéo dài 16 năm
Chi phí phá sản quá cao đang là rào cản lớn, khiến nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng “chết không chôn được”. Tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các đại biểu và chuyên gia đã đề xuất cần có cơ chế hỗ trợ từ ngân sách nhà nước hoặc lập quỹ riêng để tháo gỡ vướng mắc này trong dự án Luật Phá sản (sửa đổi).
Chiều 12/9, tiếp tục Phiên họp thứ 49, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Phá sản (sửa đổi). Trong đó, chi phí phá sản và các thủ tục liên quan là nội dung được nhiều đại biểu quan tâm.
“Có vụ phá sản kéo dài 16 năm vẫn đang thi hành”

Nêu ý kiến tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn yêu cầu cơ quan soạn thảo phải đánh giá kỹ lưỡng tác động của việc dùng ngân sách nhà nước để đảm bảo chi phí phá sản trong trường hợp doanh nghiệp không còn khả năng chi trả, đảm bảo đồng bộ với Luật Ngân sách nhà nước. Ông đặc biệt lưu ý đến việc rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục phá sản.

“Đã phá sản rồi mà thủ tục kéo dài nữa rất phiền hà. Theo báo cáo, có vụ kéo dài 10 năm, 16 năm vẫn đang thi hành. Chúng ta phải xem lại thời gian này”, Chủ tịch Quốc hội chỉ rõ và yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh.
Chủ tịch Quốc hội cũng yêu cầu làm rõ các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để doanh nghiệp, HTX có cơ hội phục hồi, thay vì đi đến con đường phá sản.
Tiến sĩ Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cho rằng, phần lớn các doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng phá sản thì đã kiệt quệ về tài chính, không còn khả năng ứng trước chi phí. Buộc doanh nghiệp phải tự ứng tiền là điều không khả thi.
Từ thực tế đó, Hiệp hội đề xuất miễn phí phá sản cho các doanh nghiệp không đủ điều kiện. Hai là, thành lập một quỹ hỗ trợ chi phí phá sản cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, HTX, với nguồn vốn từ ngân sách hoặc xã hội hóa.

Bên cạnh đó, ông Nam cũng nhấn mạnh sự cần thiết của một cơ chế phục hồi thay vì chỉ tập trung thanh lý tài sản.
“Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn nhưng vẫn còn tiềm năng phục hồi nếu được hỗ trợ kịp thời. Chúng ta cần một cơ chế để xã hội không mất đi những doanh nghiệp vẫn còn giá trị và hàng triệu việc làm”, ông Nam nói.
Đại diện Hiệp hội cũng đề nghị bổ sung các quy định cụ thể hơn về thủ tục hòa giải, cơ chế hỗ trợ pháp lý cho chủ nợ, tổ chức hội nghị chủ nợ trực tuyến cho các vụ việc có quy mô lớn, và tăng thêm thẩm quyền cho quản tài viên, thẩm phán để giảm bớt các tầng nấc hành chính.
Giải trình, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Văn Tiến nêu rõ, chi phí phá sản chính là một vướng mắc lớn. Ông khẳng định đây là “nguyên nhân khiến nhiều doanh nghiệp “chết” không chôn được vì không có tiền nộp chi phí”.
Theo ông Tiến, quan điểm của Chính phủ là miễn loại phí này. Tuy nhiên, để quy trình được vận hành, đặc biệt là chi trả cho Quản tài viên, cần phải có một nguồn tài chính.
“Do đó, chúng tôi kính đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét cho phép thành lập một quỹ hoặc sử dụng ngân sách nhà nước cho mục đích này. Nếu không có cơ chế này, việc tháo gỡ sẽ rất khó khăn”, ông Tiến nói.
Cân nhắc quy định cấm đảm nhiệm chức vụ sau phá sản
Trước đó, trình bày tờ trình, Phó Chánh án Tóa án nhân dân tối cao Nguyễn Văn Tiến cho biết dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) gồm 89 điều, 8 chương, được xây dựng nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định còn vướng mắc, bất cập trong thực tiễn.
Cùng đó, tháo gỡ những điểm nghẽn trong giải quyết vụ việc phá sản; tạo hành lang pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp, HTX phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh; tuyên bố phá sản và thanh lý kịp thời những doanh nghiệp, HTX không còn khả năng phục hồi; khơi thông nguồn lực, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển nền kinh tế lành mạnh…

Phó Chánh án cho biết, dự thảo luật bổ sung khái niệm “doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán”; sửa đổi khái niệm “doanh nghiệp, HTX mất khả năng thanh toán”; quy định về lệ phí phục hồi; tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản, chi phí phục hồi, phá sản…
Cơ quan soạn thảo cũng bổ sung trường hợp không áp dụng biện pháp cấm đảm nhiệm chức vụ sau khi doanh nghiệp, HTX bị tuyên bố phá sản. Cụ thể như doanh nghiệp, HTX bị tuyên bố phá sản vì lý do khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng.
Doanh nghiệp bị phá sản mà nguyên nhân dẫn đến phá sản không xuất phát từ hoạt động quản lý, điều hành, kiểm soát của người giữ chức vụ Chủ tịch, Tổng giám đốc, Giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; người đại diện phần vốn góp của Nhà nước ở doanh nghiệp có vốn nhà nước được cử, chỉ định, bổ nhiệm.
Ở góc độ thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, một số ý kiến đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu nội hàm của các khái niệm này để phản ánh đúng thực chất tình trạng khó khăn của doanh nghiệp, HTX và tình trạng trở lại hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường sau khi đã giải quyết được khó khăn về tài chính.

Về cơ chế hỗ trợ của Nhà nước cho doanh nghiệp, HTX trong giai đoạn phục hồi, Thường trực Ủy ban đề nghị nghiên cứu quy định tại dự thảo Luật theo hướng Nhà nước sẽ giãn, hoãn các loại thuế cho doanh nghiệp, HTX nợ thuế trong giai đoạn thực hiện phục hồi hoặc trong thời hạn nhất định kể từ ngày Tòa án công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hổi hoạt động kinh doanh có hiệu lực để thực hiện chính sách hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp, HTX áp dụng thủ tục phục hồi có tính khả thi và mang lại hiệu quả.
Đối với quy định cấm đảm nhiệm chức vụ sau khi doanh nghiệp, HTX bị tuyên bố phá sản, cơ quan thẩm tra đề nghị cân nhắc bổ sung quy định thời hạn đối với những đối tượng bị cấm đảm nhiệm chức vụ sau khi doanh nghiệp, HTX bị tuyên bố phá sản.
“Việc này là để họ có cơ hội sửa sai, rút kinh nghiệm từ thực tiễn quản lý điều hành, đóng góp vào phát triển nền kinh tế, bảo đảm phù hợp với chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với những cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”, ông Mãi nêu.