Người Hà Nội- nhớ Hà Nội
Một chiều hè đầy nắng và gió lên, chở nước sông Đò xuôi Cửa Đại. Kiến trúc sư Nguyễn Đức Cường tiếp tôi trong nhà vườn của anh cạnh dòng sông, bến nước, con đò nhỏ lửng lơ đứng đợi.
Một chiều hè đầy nắng và gió lên, chở nước sông Đò xuôi Cửa Đại. Kiến trúc sư Nguyễn Đức Cường tiếp tôi trong nhà vườn của anh cạnh dòng sông, bến nước, con đò nhỏ lửng lơ đứng đợi. Đó là một ngôi biệt thự kiểu Pháp, ẩn trong vườn, trầu cau, tre trúc, cây hồng, chanh, cam, na, bưởi, luống rau, giàn mướp, hoa thiên lý, mồng tơi, giếng, vại nước, hàng rào dâm bụt…gợi nhớ làng quê đồng bằng Bắc bộ.
Cây cau giàn trầu quấn quýt lá xanh bên tảng đá, hiện về cổ tích Trầu Cau như mời gọi ai đó dừng chân. Đất trời tĩnh lặng. Bên kia bờ sông, cánh đồng lúa xanh, thỉnh thoảng đôi cò trắng lượn vòng. Thôn làng xa xa. Lũy tre rủ bóng chiều…
Nhà vườn ven sông là hiện thân của một không gian ca dao. Không gian trong thơ Nguyễn Bính. Người kiến trúc sư đương đại, với hồn nhạc, họa, thơ dân tộc, đã sáng tạo ngôi nhà, mảnh vườn đẹp như thơ, nâng bổng hồn phố cổ Hội An: “Lá thấp cành cao gió đuổi nhau/ Góc vườn rụng vội chiếc mo cau/ Trái na mở mắt nhìn ngơ ngác/ Đàn kiến trường chinh tự thuở nào”. Không gian đồng quê tinh túy trong thơ, nhạc, ca dao…đã mất. Ký ức thơm tho ấy còn vương lại trong nghệ thuật. Những chàng trai, cô gái Hà Nội thời Thơ mới, văn chương Tự lực văn đoàn, nhạc tiền chiến… đủ lãng mạn để cảm nhận và tái tạo cái đẹp, một đi không trở lại.

Nguyễn Đức Cường là chàng trai Hà Nội thời ấy, từng yêu nhạc Đoàn Chuẩn, Nguyễn Thế Phong đến mê hồn. Tuổi học trò, Cường mải mê ca hát, học đàn do Tạ Tấn, Mạnh Quỳnh dạy… Chiều chiều, đón đợi ánh mắt hiền thiếu nữ trong ngôi nhà phố Ấu Triệu thoảng tiếng dương cầm. Tiếng nàng trong trẻo tan theo gió, mơ màng gửi tới chàng những cung đàn yêu.
Chiều chậm rơi. Ông Cường kể chuyện đời mình, như òa vỡ những u uẩn từng bị ghìm nén năm mươi năm ròng.
Tôi mới từ Sài Gòn về Hội An, xây Nhà vườn ven sông trên mảnh đất hương hỏa nhà vợ. Trở về đây, tôi muốn ngưng nghỉ sau một kiếp phong trần. Phố cổ Hội An, ngõ nhỏ, ngôi chùa cổ, mái ngói rêu phong, hoa phượng vĩ, hoa cúc dại, hoa hoàng hậu tím cuối đường, tiếng rao đêm, những dòng sông hoài nhớ, những tiếng hát đồng dao, tiếng ngâm Kiều, tiếng đọc thơ Đường, chén rượu thơm ngiêng ngả… làm tôi nhớ nôn nao phố Ấu Triệu của tôi ngày thơ dại. Tuổi thơ tôi dưới bóng cây Hà Nội, trèo sấu, đổ ve, những buổi đi học, mưa chiều giăng giăng… Nàng đạp xe đi học, mưa thấm ướt. Tôi đưa nàng về nhà qua vườn hoa Canh Nông. Mưa Hà Nội xiên ngang cành lá. Hai người đi trong mưa. Nụ hôn đầu giấu trong sắc tím bằng lăng…
Tôi đi hát. Cha tôi bảo: “Phải làm khoa học. Đời người trọng bách nghệ là hơn”. Tôi học kiến trúc sư. Thi cực khó. Lớp tôi có hơn trăm người, toàn con nhà giàu, có tài. Học xong, tôi là con nhà tư sản nên bị điều lên Tây Bắc. Những tháng ngày gian nan Tây Bắc, tôi đi đào củ mài, lên nương trồng ngô, tra hạt lúa, tối ngủ nhà sàn cùng trâu, bò, lợn, gà ở tầng dưới, miệng ăn măng trúc, măng mai…mà vẫn chưa xóa được cái tiếng “tư sản”… Tôi chẳng biết “tư sản” là thế nào. Chỉ biết mình ham học hỏi, say mê cái đẹp, muốn mọi người đều trở nên con người giỏi giang và tốt đẹp. Họ không cho tôi vào biên chế, vì là “tư sản”… Đêm trong rừng. Cơn sốt mê man. Máu trào lồng ngực. Tôi hoảng hốt. Sống hay là không sống? Tôi đang đi đâu? Về đâu? Sống làm gì với những trò vô nghĩa… Đêm kinh hoàng. Tiếng cú kêu.
Tôi lơ mơ thiếp đi. Mơ thấy cha. Tiếng ông vang lên: “Đứng lên con. Đứng thẳng lên mà sống. Không cần chức danh. Không cần chức vụ. Cứ có nghề là sống.” Lời cha thúc giục như mũi tên chỉ đường. Tôi gượng đứng lên. Lao động chân tay. Cầm cày, cuốc, xẻng, búa, liềm… Chịu đựng. Chấp nhận. Đêm về tôi viết. Vẽ. Hát vang rừng đêm…Quên ngày, quên tháng. Quên cả thân mình. Song trong tầm cao tư tưởng, tôi ước mơ một ngày không xa, tôi sẽ trở lại là chính mình. Sống như những gì mình muốn. Làm những việc trong khả năng mình có. Giống con chim bằng, tôi băng qua rừng rậm, lại về Hà Nội…
Nhưng Hà Nội của tôi đâu còn những giọt mưa thu thánh thót đợi chờ. Thiếu nữ tóc thề buông xõa ngang vai đã lên xe hoa. Mối tình đầu ai nỡ đánh rơi? Một mình tôi đi trong mưa chiều Hà Nội. Phố cổ liêu xiêu. Buồn xao xác. Những ngôi biệt thự kiểu Pháp xưa êm thắm tiếng cười, nay chia năm xẻ bảy. Tầng dưới, tầng trên, gầm cầu thang, các gia đình khác đến ở. Chật chội. Ồn ào. La hét. Khóc cười. Cha tôi bỏ về cùng tiên tổ. Tôi là con út được di chúc trông nom gia sản. Ong vỡ tổ. Cô dì, anh chị em, chú bác, họ xa, họ gần… kéo nhau đến đòi chia nhà. Kẻ đòi tiền. Người xô đến ở. Tiếng tranh chấp cãi cọ, giằng giật ngày đêm không dứt. Họ xé hồn tôi tan tác. Tôi sầu đau. Đành bó tay. Mất trắng.

Tay không. Tôi đưa mẹ già, vợ và hai con nhỏ dại vào Sài Gòn kiếm kế sinh nhai. Đất lạ. Sài Gòn sau 1975. Giải phóng miền Nam. Dân Bắc Kỳ vào đông. Lúc đầu sống rất khó. Người Bắc, kẻ Namkỳ thị lẫn nhau. Vốn là dân Hà Nội hào hoa, bất cần danh tước hão, tôi xoay trần ra sống và làm việc hết mình cùng những “anh hai” hào phóng. Nét tài hoa Hà Nội và sự hào hiệp phương Nam, gặp nhau dễ dàng làm nên việc. Tôi giao tiếp nhiều, cần kiến thức và thông tin. Mỗi ngày tôi mua mấy loại báo. Đọc. Nhớ. Kể lại trên bàn ăn, lúc uống trà, café, khi gặp bạn… Nếp sống đô thị thương mại hiện đại ngấm trong tôi. Bạn bè nhiều. Công việc không thiếu. Tôi đam mê. Được tin dùng. Vừa làm thầy vừa làm thợ. Kho báu kiến thức trong tôi được hiến dâng. Sài Gòn quen làm ăn với phương Tây. Tôi đổi thay cùng Sài Gòn năng động, sáng tạo. Những ngôi nhà tôi thiết kế kết hợp hài hòa nét đẹp truyền thống và hiện đại. Tiện nghi và sang trọng. Tôi thành đạt. Tôi đã lấy lại được tất cả những gì tôi đã mất. Tôi đã đứng thẳng mà đi trước cuộc đời không còn bị rừng che, cây chắn…
Tuổi xế chiều. Nỗi nhớ Hà Nội da diết trong tôi. Nhớ đường mưa Hà Nội. Hoa tím bằng lăng giăng đầy lối mưa. Nhà vườn ven sông là bản nhạc chiều tôi sáng tác để tặng lòng tôi. Đời người đi qua giông gió. Thời gian xóa. Không gian xóa. Cần trở về bến sông tĩnh lặng, hoài niệm và thương nhớ. Kỷ niệm về các bạn học Chu Văn An sống dậy. Chiều lại chiều, tôi tưới cây, chăm hoa mà lòng rưng rưng. Ngôi nhà nhỏ có giàn hoa Ti-gôn thắm đỏ màu trái tim vỡ, trong phố Ấu Triệu ngày xưa ấy, giờ còn bóng ai? Tiếng dương cầm biến tan. Mỗi lần về Hà Nội, tôi đứng trên tầng hai khách sạn nhìn về phố cũ, lòng đau chín chiều. Tôi còn ai? Chỉ còn nỗi nhớ.
Những chàng trai Hà Nội thời tôi không mơ chinh chiến. Chúng tôi mơ xây ngôi nhà bình yên, hoa trái vây đầy. Mơ trồng cây xanh trên đường Hà Nội che mưa những mái đầu tình tự. Mơ tiếng dương cầm trôi nhẹ theo sóng biếc Hồ Gươm. Mơ những đêm trăng hái sen đầy thuyền cùng người ngọc trên Hồ Tây. Biến động cuộc đời đã làm tan giấc mơ hoa. Nhưng mơ ước trong hồn thì không gì dập tắt nổi. Tuổi hoàng hôn tôi vẫn cứ mơ. Nhà vườn ven sông là mơ ước của đời tôi gửi lại, nhắc con cháu hãy tự mình làm nên một sự nghiệp cá nhân huy hoàng. Đừng bao giờ đầu hàng hoàn cảnh.
Tôi mê Nguyễn Bính vì ông cũng như tôi, phải rời đất Bắc lưu lạc vào Nam. Bỏ Hà thành ra đi. Hồn tôi bị lưu đày. Nỗi buồn dằng dặc chẳng lúc nào nguôi: "Từ buổi về đây, sầu lại sầu/ Người xa vời quá ai thương đâu". Tôi bám tựa vào hồn thi sĩ để được an ủi. Hình như hồn Nguyễn Bính đã về ở lại với Nhà vườn ven sông cùng tôi niệm và nhớ thương Hà Nội.
Chiều Hội An. Gió lang thang. Sông nước dập doành. Bầy cò trắng lượn đi đâu trên cánh đồng xa? Chia tay ông Cường và Ngôi nhà ven sông, tôi nghĩ cũng may mà ông Cường được sinh ra trong cảnh sống Hà Nội xưa, thanh bạch mà đẫm hồn thơ, nhạc, họa nên mới giữ được tâm hồn bay bổng ước mơ mà đi, mà sống giữa chợ đời, vẫn giữ được mình là “tư sản” hay là con người cá nhân, không đánh mất mình. Cũng may mà ông còn gìn giữ được mối tình đầu mờ ảo như thơ, nhạc ngay từ tuổi thanh xuân, nhờ tâm hồn lãng mạn, mơ màng của một chàng trai “tư sản”. Để đến tuổi hoàng hôn, ông vẫn còn một khoảng trời thương nhớ. Còn một Hà Nội thánh thiện mà hoài niệm.
Cây cau giàn trầu quấn quýt lá xanh bên tảng đá, hiện về cổ tích Trầu Cau như mời gọi ai đó dừng chân. Đất trời tĩnh lặng. Bên kia bờ sông, cánh đồng lúa xanh, thỉnh thoảng đôi cò trắng lượn vòng. Thôn làng xa xa. Lũy tre rủ bóng chiều…
Nhà vườn ven sông là hiện thân của một không gian ca dao. Không gian trong thơ Nguyễn Bính. Người kiến trúc sư đương đại, với hồn nhạc, họa, thơ dân tộc, đã sáng tạo ngôi nhà, mảnh vườn đẹp như thơ, nâng bổng hồn phố cổ Hội An: “Lá thấp cành cao gió đuổi nhau/ Góc vườn rụng vội chiếc mo cau/ Trái na mở mắt nhìn ngơ ngác/ Đàn kiến trường chinh tự thuở nào”. Không gian đồng quê tinh túy trong thơ, nhạc, ca dao…đã mất. Ký ức thơm tho ấy còn vương lại trong nghệ thuật. Những chàng trai, cô gái Hà Nội thời Thơ mới, văn chương Tự lực văn đoàn, nhạc tiền chiến… đủ lãng mạn để cảm nhận và tái tạo cái đẹp, một đi không trở lại.

Phố cổ Hà Nội
Nguyễn Đức Cường là chàng trai Hà Nội thời ấy, từng yêu nhạc Đoàn Chuẩn, Nguyễn Thế Phong đến mê hồn. Tuổi học trò, Cường mải mê ca hát, học đàn do Tạ Tấn, Mạnh Quỳnh dạy… Chiều chiều, đón đợi ánh mắt hiền thiếu nữ trong ngôi nhà phố Ấu Triệu thoảng tiếng dương cầm. Tiếng nàng trong trẻo tan theo gió, mơ màng gửi tới chàng những cung đàn yêu.
Chiều chậm rơi. Ông Cường kể chuyện đời mình, như òa vỡ những u uẩn từng bị ghìm nén năm mươi năm ròng.
Tôi mới từ Sài Gòn về Hội An, xây Nhà vườn ven sông trên mảnh đất hương hỏa nhà vợ. Trở về đây, tôi muốn ngưng nghỉ sau một kiếp phong trần. Phố cổ Hội An, ngõ nhỏ, ngôi chùa cổ, mái ngói rêu phong, hoa phượng vĩ, hoa cúc dại, hoa hoàng hậu tím cuối đường, tiếng rao đêm, những dòng sông hoài nhớ, những tiếng hát đồng dao, tiếng ngâm Kiều, tiếng đọc thơ Đường, chén rượu thơm ngiêng ngả… làm tôi nhớ nôn nao phố Ấu Triệu của tôi ngày thơ dại. Tuổi thơ tôi dưới bóng cây Hà Nội, trèo sấu, đổ ve, những buổi đi học, mưa chiều giăng giăng… Nàng đạp xe đi học, mưa thấm ướt. Tôi đưa nàng về nhà qua vườn hoa Canh Nông. Mưa Hà Nội xiên ngang cành lá. Hai người đi trong mưa. Nụ hôn đầu giấu trong sắc tím bằng lăng…
Tôi đi hát. Cha tôi bảo: “Phải làm khoa học. Đời người trọng bách nghệ là hơn”. Tôi học kiến trúc sư. Thi cực khó. Lớp tôi có hơn trăm người, toàn con nhà giàu, có tài. Học xong, tôi là con nhà tư sản nên bị điều lên Tây Bắc. Những tháng ngày gian nan Tây Bắc, tôi đi đào củ mài, lên nương trồng ngô, tra hạt lúa, tối ngủ nhà sàn cùng trâu, bò, lợn, gà ở tầng dưới, miệng ăn măng trúc, măng mai…mà vẫn chưa xóa được cái tiếng “tư sản”… Tôi chẳng biết “tư sản” là thế nào. Chỉ biết mình ham học hỏi, say mê cái đẹp, muốn mọi người đều trở nên con người giỏi giang và tốt đẹp. Họ không cho tôi vào biên chế, vì là “tư sản”… Đêm trong rừng. Cơn sốt mê man. Máu trào lồng ngực. Tôi hoảng hốt. Sống hay là không sống? Tôi đang đi đâu? Về đâu? Sống làm gì với những trò vô nghĩa… Đêm kinh hoàng. Tiếng cú kêu.
Tôi lơ mơ thiếp đi. Mơ thấy cha. Tiếng ông vang lên: “Đứng lên con. Đứng thẳng lên mà sống. Không cần chức danh. Không cần chức vụ. Cứ có nghề là sống.” Lời cha thúc giục như mũi tên chỉ đường. Tôi gượng đứng lên. Lao động chân tay. Cầm cày, cuốc, xẻng, búa, liềm… Chịu đựng. Chấp nhận. Đêm về tôi viết. Vẽ. Hát vang rừng đêm…Quên ngày, quên tháng. Quên cả thân mình. Song trong tầm cao tư tưởng, tôi ước mơ một ngày không xa, tôi sẽ trở lại là chính mình. Sống như những gì mình muốn. Làm những việc trong khả năng mình có. Giống con chim bằng, tôi băng qua rừng rậm, lại về Hà Nội…
Nhưng Hà Nội của tôi đâu còn những giọt mưa thu thánh thót đợi chờ. Thiếu nữ tóc thề buông xõa ngang vai đã lên xe hoa. Mối tình đầu ai nỡ đánh rơi? Một mình tôi đi trong mưa chiều Hà Nội. Phố cổ liêu xiêu. Buồn xao xác. Những ngôi biệt thự kiểu Pháp xưa êm thắm tiếng cười, nay chia năm xẻ bảy. Tầng dưới, tầng trên, gầm cầu thang, các gia đình khác đến ở. Chật chội. Ồn ào. La hét. Khóc cười. Cha tôi bỏ về cùng tiên tổ. Tôi là con út được di chúc trông nom gia sản. Ong vỡ tổ. Cô dì, anh chị em, chú bác, họ xa, họ gần… kéo nhau đến đòi chia nhà. Kẻ đòi tiền. Người xô đến ở. Tiếng tranh chấp cãi cọ, giằng giật ngày đêm không dứt. Họ xé hồn tôi tan tác. Tôi sầu đau. Đành bó tay. Mất trắng.

Đền Ngọc Sơn
Tay không. Tôi đưa mẹ già, vợ và hai con nhỏ dại vào Sài Gòn kiếm kế sinh nhai. Đất lạ. Sài Gòn sau 1975. Giải phóng miền Nam. Dân Bắc Kỳ vào đông. Lúc đầu sống rất khó. Người Bắc, kẻ Namkỳ thị lẫn nhau. Vốn là dân Hà Nội hào hoa, bất cần danh tước hão, tôi xoay trần ra sống và làm việc hết mình cùng những “anh hai” hào phóng. Nét tài hoa Hà Nội và sự hào hiệp phương Nam, gặp nhau dễ dàng làm nên việc. Tôi giao tiếp nhiều, cần kiến thức và thông tin. Mỗi ngày tôi mua mấy loại báo. Đọc. Nhớ. Kể lại trên bàn ăn, lúc uống trà, café, khi gặp bạn… Nếp sống đô thị thương mại hiện đại ngấm trong tôi. Bạn bè nhiều. Công việc không thiếu. Tôi đam mê. Được tin dùng. Vừa làm thầy vừa làm thợ. Kho báu kiến thức trong tôi được hiến dâng. Sài Gòn quen làm ăn với phương Tây. Tôi đổi thay cùng Sài Gòn năng động, sáng tạo. Những ngôi nhà tôi thiết kế kết hợp hài hòa nét đẹp truyền thống và hiện đại. Tiện nghi và sang trọng. Tôi thành đạt. Tôi đã lấy lại được tất cả những gì tôi đã mất. Tôi đã đứng thẳng mà đi trước cuộc đời không còn bị rừng che, cây chắn…
Tuổi xế chiều. Nỗi nhớ Hà Nội da diết trong tôi. Nhớ đường mưa Hà Nội. Hoa tím bằng lăng giăng đầy lối mưa. Nhà vườn ven sông là bản nhạc chiều tôi sáng tác để tặng lòng tôi. Đời người đi qua giông gió. Thời gian xóa. Không gian xóa. Cần trở về bến sông tĩnh lặng, hoài niệm và thương nhớ. Kỷ niệm về các bạn học Chu Văn An sống dậy. Chiều lại chiều, tôi tưới cây, chăm hoa mà lòng rưng rưng. Ngôi nhà nhỏ có giàn hoa Ti-gôn thắm đỏ màu trái tim vỡ, trong phố Ấu Triệu ngày xưa ấy, giờ còn bóng ai? Tiếng dương cầm biến tan. Mỗi lần về Hà Nội, tôi đứng trên tầng hai khách sạn nhìn về phố cũ, lòng đau chín chiều. Tôi còn ai? Chỉ còn nỗi nhớ.
Những chàng trai Hà Nội thời tôi không mơ chinh chiến. Chúng tôi mơ xây ngôi nhà bình yên, hoa trái vây đầy. Mơ trồng cây xanh trên đường Hà Nội che mưa những mái đầu tình tự. Mơ tiếng dương cầm trôi nhẹ theo sóng biếc Hồ Gươm. Mơ những đêm trăng hái sen đầy thuyền cùng người ngọc trên Hồ Tây. Biến động cuộc đời đã làm tan giấc mơ hoa. Nhưng mơ ước trong hồn thì không gì dập tắt nổi. Tuổi hoàng hôn tôi vẫn cứ mơ. Nhà vườn ven sông là mơ ước của đời tôi gửi lại, nhắc con cháu hãy tự mình làm nên một sự nghiệp cá nhân huy hoàng. Đừng bao giờ đầu hàng hoàn cảnh.
Tôi mê Nguyễn Bính vì ông cũng như tôi, phải rời đất Bắc lưu lạc vào Nam. Bỏ Hà thành ra đi. Hồn tôi bị lưu đày. Nỗi buồn dằng dặc chẳng lúc nào nguôi: "Từ buổi về đây, sầu lại sầu/ Người xa vời quá ai thương đâu". Tôi bám tựa vào hồn thi sĩ để được an ủi. Hình như hồn Nguyễn Bính đã về ở lại với Nhà vườn ven sông cùng tôi niệm và nhớ thương Hà Nội.
Chiều Hội An. Gió lang thang. Sông nước dập doành. Bầy cò trắng lượn đi đâu trên cánh đồng xa? Chia tay ông Cường và Ngôi nhà ven sông, tôi nghĩ cũng may mà ông Cường được sinh ra trong cảnh sống Hà Nội xưa, thanh bạch mà đẫm hồn thơ, nhạc, họa nên mới giữ được tâm hồn bay bổng ước mơ mà đi, mà sống giữa chợ đời, vẫn giữ được mình là “tư sản” hay là con người cá nhân, không đánh mất mình. Cũng may mà ông còn gìn giữ được mối tình đầu mờ ảo như thơ, nhạc ngay từ tuổi thanh xuân, nhờ tâm hồn lãng mạn, mơ màng của một chàng trai “tư sản”. Để đến tuổi hoàng hôn, ông vẫn còn một khoảng trời thương nhớ. Còn một Hà Nội thánh thiện mà hoài niệm.
Theo Nguoihanoi.com.vn