HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM.
A- A A+ |

Niềm tin lung lay, tín dụng khó mở rộng

Sau giai đoạn “sàng lọc tự nhiên” không ít đớn đau này, số DN mới thành lập sẽ tăng nhanh và nhiều hơn số mất đi. Đáng chú ý là số lượng vốn đăng ký thành lập mới DN có chiều hướng tăng nhanh, quy mô vốn bình quân trên từng DN mới thành lập cao hơn so với trước.
Sau giai đoạn “sàng lọc tự nhiên” không ít đớn đau này, số DN mới thành lập sẽ tăng nhanh và nhiều hơn số mất đi. Đáng chú ý là số lượng vốn đăng ký thành lập mới DN có chiều hướng tăng nhanh, quy mô vốn bình quân trên từng DN mới thành lập cao hơn so với trước.
 
TS. Phạm Ngọc Long  

TS. Phạm Ngọc Long, Viện trưởng Viện Khoa học quản trị DNNVV (SISME) trả lời phỏng vấn phóng viên Thời báo Ngân hàng.

Ông nhìn nhận thế nào về con số hơn 54 ngàn DN giải thể, tạm ngừng hoạt động trong 10 tháng năm 2014 mà Tổng cục Thống kê công bố?

TS. Phạm Ngọc Long, Viện trưởng Viện Khoa học quản trị DNNVV (SISME) trả lời phỏng vấn phóng viên Thời báo Ngân hàng.

Ông nhìn nhận thế nào về con số hơn 54 ngàn DN giải thể, tạm ngừng hoạt động trong 10 tháng năm 2014 mà Tổng cục Thống kê công bố?

Tình trạng hoạt động cầm chừng, giải thể tự phát hay có đăng ký, kể cả phá sản của DN trong điều kiện suy thoái là hiện tượng hết sức bình thường trong nền kinh tế thị trường. Điều bất thường là trong vòng 4 năm qua, nền kinh tế mất đi khoảng 200 ngàn DN và 10 tháng đầu có tiếp hơn 54 ngàn DN giải thể, ngưng hoạt động. Như vậy là quá nhiều, quá chua xót, dẫu rằng trong đó luôn có khoảng 50 - 70 ngàn DN ở tình trạng đăng ký mà không hoạt động hoặc chưa kịp hoạt động.
 

DN phá sản, ngừng hoạt động quá nhiều, quá chua xót

Niềm an ủi đối với chúng ta chỉ còn là ở chỗ, sau giai đoạn “sàng lọc tự nhiên” không ít đớn đau này, số DN mới thành lập sẽ tăng nhanh và nhiều hơn số mất đi. Trong vòng 2 năm gần đây hiện tượng này đã và đang xuất hiện. Tuy nhiên con số chênh lệch này không nhiều, chỉ khoảng 2-3 ngàn DN. Đáng chú ý là số lượng vốn đăng ký thành lập mới DN có chiều hướng tăng nhanh, quy mô vốn bình quân trên từng DN mới thành lập cao hơn so với trước.

Điều đó cho thấy, nếu khung khổ pháp lý về DN nhanh chóng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, môi trường kinh doanh và đầu tư sớm được cải thiện thì khả năng hồi phục và tăng trưởng trở lại của khu vực DNNVV là hết sức khả quan.

Theo ông, các DNNVV đang đối mặt với những khó khăn nào?

Có 5 khó khăn chủ yếu các DNNVV đang phải đối mặt: Mặt bằng sản xuất; Thị trường đầu ra; Đổi mới công nghệ; Tiếp cận tín dụng và hỗ trợ tài chính khác; Kỹ năng quản trị, thông tin và hỗ trợ pháp lý. Tùy DN ở giai đoạn cụ thể, mức độ khó khăn khác nhau. Nguyên nhân chủ yếu nền kinh tế mới trải qua suy thoái, khủng hoảng, hồi phục chậm, sức mua giảm sút, tổng cầu suy yếu, thị trường đầu ra khó khăn, hàng tồn kho nhiều, nhiều DNNVV phải ngưng hoạt động, hoạt động cầm chừng, kể cả giải thể, phá sản nhiều.

Chính vì vậy, thời gian gần đây khó khăn nổi lên là vấn đề tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, khi niềm tin giữa 2 bên lung lay, cơ sở mở rộng tín dụng vướng nhiều rào cản về các điều kiện tín dụng liên quan đến tài sản đảm bảo, xếp hạng rủi ro khách hàng...

Các ngân hàng khó cho DN mới khởi nghiệp vay vốn vì thiếu thông tin, trong khi nguồn lực không đủ khiến các DN mới không thể có phát triển đột phá. Theo ông, đâu là giải pháp?

Thực chất đây là dạng đầu tư cho vay mang tính mạo hiểm nhiều rủi ro, nên các ngân hàng thường quan ngại cũng là dễ hiểu. Đối tượng khách hàng này khác với số khách hàng truyền thống của ngân hàng là không có lịch sử giao dịch làm căn cứ thẩm định ban đầu. Tuy nhiên, nền kinh tế đang cần tái cơ cấu, đổi mới, sắp xếp các khu vực DN theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập dựa nền tảng khoa học, công nghệ, tham gia chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu, đáp ứng nhiều tiêu chuẩn khắt khe của quốc tế.

Trong số các DN mới khởi nghiệp, khá nhiều DN, doanh nhân trẻ đi theo hướng này. Đặc biệt là số DN khoa học và công nghệ mà tài sản lớn nhất của họ có khi chỉ là ý tưởng hay bản quyền sở hữu trí tuệ. Nếu có nguồn lực đầu tư kịp thời, đủ mức có khi tạo đột phá rất lớn, không những tạo thêm nhiều công ăn, việc làm mà còn giúp xoay chuyển cả một lĩnh vực, ngành hàng phù hợp hơn nhu cầu thị trường.

Có 3 giải pháp: Thứ nhất, các ngân hàng cần nâng cao năng lực thẩm định theo hướng đa dạng hóa các ngành kinh tế kỹ thuật, cập nhật kiến thức khoa học, công nghệ để không bỏ lỡ cơ hội tiếp cận khách hàng loại này. Thứ hai, các ngân hàng tăng tỷ lệ cho vay tín chấp dựa vào hệ thống thông tin khách hàng, lĩnh vực, ngành hàng và thị trường đầy đủ, đồng thời lập quỹ cho vay mạo hiểm được Nhà nước bảo trợ, bảo hiểm rủi ro bằng nhiều chính sách khác nhau. Thứ ba, các ngân hàng nên phối hợp các cơ quan ban, ngành, các tổ chức hiệp hội DN, doanh nhân tổ chức tốt công tác tư vấn, đào tạo hướng nghiệp cho các học viên có nhu cầu khởi nghiệp... Qua đó tiếp cận để thu hút, phục vụ lực lượng DN trẻ đầy tiềm năng trong tương lai này. 

Như ông nói, niềm tin giữa ngân hàng và DN lung lay. Nhưng việc hình sự hoá các quan hệ tín dụng cũng khiến cả ngân hàng và DN ngại ngần vay vốn. Theo ông, nên xử lý thế nào?

Hình sự hóa các quan hệ tín dụng phản ánh yếu kém của pháp luật về hoạt động tín dụng và ngân hàng, thiếu tôn trọng cơ chế thị trường trong xử lý bất kỳ quan hệ tín dụng nào vốn dĩ mang bản chất dân sự ở mọi xã hội tiến bộ. Hệ thống pháp luật của ta được xây dựng chưa hoàn toàn theo chuẩn mực kinh tế thị trường, còn bị chi phối bởi các quan niệm chủ quan, duy ý chí nên luôn có những “khoảng trống, vùng tối” mà luật chưa hoàn toàn điều chỉnh được.

Để bù đắp khiếm khuyết này luôn có sẵn hàng loạt các chế định mang tính chất ăn theo, sẵn sàng can thiệp chủ yếu bằng các biện pháp hành chính. Do đó mới có hình sự hóa các quan hệ kinh tế về bản chất mang tính chất dân sự, vốn dĩ có thể điều chỉnh dễ dàng trong khuôn khổ quan hệ thị trường.

Hoạt động tín dụng phát sinh nợ xấu là việc bình thường. Vấn đề là nợ xấu ở ngưỡng kiểm soát được rủi ro của ngân hàng. Đôi khi nợ xấu trở thành “xấu hơn” do pháp luật của ta khiến các DN khó được giải thể, phá sản, các ngân hàng mất nhiều thời gian xử lý phát mại tài sản, việc mua bán tài sản nợ quá nhiêu khê...

Khắc phục tình trạng này có 5 việc phải làm: Thứ nhất, chấn chỉnh hệ thống kiểm soát rủi ro nội bộ, kiện toàn bộ máy thẩm định phê duyệt tín dụng để tránh rủi ro đạo đức, rủi ro hoạt động ngân hàng. Thứ hai, tiếp tục kiện toàn, tăng cường hiệu lực pháp luật để đủ sức điều chỉnh mọi quan hệ tín dụng. Thứ ba, khẩn trương sửa đổi, bổ sung các luật liên quan phá sản DN, luật đấu giá phát mại tài sản tạo cơ sở pháp lý xử lý nợ xấu hoàn toàn theo cơ chế thị trường. Thứ tư sửa luật hình sự để bỏ các điều, khoản liên quan “hình sự hóa” quan hệ tín dụng ngân hàng. Thứ năm, các ngân hàng nên mua bảo hiểm cho hoạt động tín dụng, đồng thời điều chỉnh chế độ lương, thu nhập của mọi cán bộ tín dụng theo hướng trích lập định kỳ quỹ bảo lãnh trách nhiệm chung để có nguồn bồi hoàn mọi thiệt hại tín dụng do lỗi của họ gây ra.
 
Theo TBNH


vinasme.com.vn

Các tin khác

Tin đọc nhiều