Tiếp tục gỡ khó tín dụng cho DNNVV
Lâu nay khu vực DNNVV vẫn chưa được phân bổ vốn đầu tư tương xứng tiềm năng xét ở bình diện chung toàn xã hội. Tình hình tài chính DNNVV vẫn hết sức khó khăn, tồn kho cao, sản xuất đình trệ, nợ xấu tăng, ngân hàng e ngại rủi ro cao không muốn cho vay. Các doanh nghiệp luôn thiếu vốn hoạt động, tổng tài sản “teo” dần, qui mô hoạt động bị thu hẹp, năng lực cạnh tranh suy giảm càng đối mặt thách thức lớn trước tiến trình hội nhập ...
Lâu nay khu vực DNNVV vẫn chưa được phân bổ vốn đầu tư tương xứng tiềm năng xét ở bình diện chung toàn xã hội. Tình hình tài chính DNNVV vẫn hết sức khó khăn, tồn kho cao, sản xuất đình trệ, nợ xấu tăng, ngân hàng e ngại rủi ro cao không muốn cho vay. Các doanh nghiệp luôn thiếu vốn hoạt động, tổng tài sản “teo” dần, qui mô hoạt động bị thu hẹp, năng lực cạnh tranh suy giảm càng đối mặt thách thức lớn trước tiến trình hội nhập ...
Khu vực DNNVV chiếm tỷ lệ tiếp cận vay và vốn vay được còn thấp (khoảng 32,38%), tỷ lệ nợ xấu tăng cao (hiện trên 5%), thường khó đáp ứng các yêu cầu ngặt nghèo về điều kiện, thủ tục tín dụng liên quan đến tài sản đảm bảo, tính chuẩn mực hệ thống báo cáo tài chính, lịch sử quan hệ giao dịch, xếp hạng rủi ro khách hàng ... Bên cạnh đó, tỷ lệ DNNVV tiếp cận và được các quĩ bảo lãnh tín dụng bảo lãnh vay vốn các NHTM cũng rất thấp, tỷ lệ rủi ro về bảo lãnh cao (gần 27%). Các quỹ bảo lãnh tín dụng chưa đảm đương được vai trò là “bà đỡ” quan trọng cho mở rộng tín dụng tới các DNNVV. Việc xử lý nợ xấu chậm trễ và điều chỉnh lãi vay chưa hợp lý cũng là trở ngại lớn cho khách hàng có nợ quá hạn cần vay mới. Việc dãn, hoãn, khoanh nợ, giảm lãi vay cũ, tạo điều kiện cho vay mới với lãi suất hợp lý, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn theo chủ trương của Chính phủ làm chưa được nhiều, chưa kịp thời ...
Lúc này giữa ngân hàng và doanh nghiệp phải có được tiếng nói chung, sớm tái lập và củng cố niềm tin vào nhau, cùng hướng đến phá thế co cụm tín dụng, ngân hàng thì “ế vốn” muốn mà khó cho vay, DNNVV cần vốn không vay được. Theo đó tạo cơ sở để giới ngân hàng giải tỏa mọi quan ngại rủi ro, tự tin hơn khi cho vay, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp làm ăn căn cơ mạnh dạn vay vốn. Tuy nhiên, thực hiện định hướng giúp ngân hàng mở rộng tín dụng lành mạnh, không phát sinh nợ xấu mới đòi hỏi phải giải quyết khá nhiều vấn đề vướng mắc, liên quan nhiều cấp độ ban, ngành từ trung ương đến địa phương, từ chủ trương, chính sách kinh tế đến cơ chế, qui chế tín dụng hiện hành ;
Cần nhanh chóng kiện toàn và triển khai quyết liệt hơn nữa nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển khu vực DNNVV trước khi tính tới cần có 01 sắc luật về hỗ trợ phát triển khu vực DNNVV. Lâu nay chỉ vì sự phối hợp chưa ăn khớp, thiếu đồng bộ khâu thực thi chủ trương, chính sách, lại thêm nhiều rào cản TTHC mà nhiều quyết sách đúng đắn về phát triển DNNVV chưa vào được cuộc sống, chưa phát huy hết hiệu quả thực tế như kỳ vọng. Làm được như vậy các gói kích cầu “tín dụng” theo chỉ đạo của Chính phủ sẽ có đầy đủ điều kiện thực thi an toàn, hiệu quả nhanh chóng. Cần nhanh chóng hoàn thiện sớm các khung khổ pháp lý liên quan hoạt động tín dụng theo hướng giảm thiểu “hình sự hóa” phần lớn các quan hệ tín dụng để chủ yếu xử lý được theo cơ chế thị trường ;
Trong bối cảnh “tổng cầu” còn yếu, nhưng nền kinh tế đã xuất hiện nhiều dấu hiệu “thoát đáy” khủng hoảng, thay vì chờ đợi nền kinh tế “ấm hẳn”, sức “cầu” tín dụng ngân hàng hồi phục hoàn toàn; NHNN Việt Nam có thể chủ động sử dụng 01 số công cụ chính sách tiền tệ, tín dụng "kích cầu" tín dụng khu vực DNNVV. Trong điều kiện lạm phát duy trì được ở mức thấp hơn tăng trưởng GDP như hiện nay và mức chênh lệch lãi suất huy động/cho vay của các NHTM là khá cao, phần lớn vốn nhàn rỗi của nền kinh tế vẫn ở tình trạng “ứ đọng” ... thì khả năng giảm tỷ lệ DTBB, tăng tỷ lệ tái cấp vốn, tăng thời hạn và liều lượng “bơm” tiền qua OMO nhằm gián tiếp tác động giảm tiếp mặt bằng lãi suất cho vay thấp hơn nữa nhằm khoan sức cho doanh nghiệp là khả năng hiện hữu. Việc điều hành tỷ giá hối đoái chỉ nên điều chỉnh linh hoạt ở biên độ “hẹp” do kinh tế vĩ mô chưa thực ổn định bền vững và năng suất lao động bình quân nền kinh tế còn rất thấp. Bất kỳ 01 sự phá giá VND mà làm quá đột ngột đều dễ gây tâm lý “khuyếch đại” rủi ro tỷ giá, sẽ nhanh chóng phá vỡ thế ổn định giá trị “đối nội”, “đối ngoại” của VND, không có lợi cho khuyến khích đầu tư khôi phục, phát triển kinh tế hiện nay.
Tuy nhiên, chủ động kích “cầu” tín dụng, tháo gỡ khó khăn cho khu vực DNNVV cần tránh xu hướng nôn nóng tăng trưởng thiên về số lượng mà nên kết hợp vừa tăng trưởng về số lượng, vừa đảm bảo về chất lượng tín dụng, gắn liền với tái cơ cấu DNNVV đã và đang trải qua quá trình “sàng lọc tự nhiên” không ít đớn đau vừa qua. Như vậy phù hợp với yêu cầu xử lý nợ xấu khẩn trương hiện nay, không phát sinh nợ xấu mới hoặc làm nợ xấu cũ "xấu hơn". Chính sách tín dụng thay vì khuyến khích các ngân hàng chỉ cho vay khách hàng truyền thống, cũng cần quan tâm thực sự giúp DNNVV vượt qua khó khăn do lâm vào hoàn cảnh nợ quá hạn bất đắc dĩ, nhưng có đủ cơ sở phục hồi, tái thiết và chú trọng thực sự nâng đỡ các doanh nghiệp mới khởi nghiệp, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao, doanh nghiệp chủ động hội nhập tham gia vào các chuỗi giá trị cung ứng trong và ngoài nước;
Tháo gỡ khó khăn tín dụng cho khu vực DNNVV buộc các ngân hàng phải năng động, chủ động và sáng tạo hơn trong việc cải tiến, đổi mới các mô hình, cách thức cho vay mà vẫn kiểm soát tốt rủi ro. Các loại hình, sản phẩm tín dụng đối với khu vực DNNVV thường gắn với thực trạng hoạt động theo từng lĩnh vực, ngành hàng của doanh nghiệp. Theo đó các qui chế, qui trình tín dụng đòi hỏi luôn có sự hoàn thiện theo tình hình thị trường. Chủ trương của Chính phủ định hướng hệ thống ngân hàng tăng tỷ lệ cho vay tín chấp là thử thách lớn, đòi hỏi phải có hệ thống thông tin khách hàng đầy đủ, hệ thống báo cáo tài chính, kế toán, thống kê minh bạch, qui chế, qui trình quản trị rủi ro chuẩn mực, và đặc biệt là tính tuân thủ cao trong công tác thẩm định, phê duyệt tín dụng. Các hoạt động tín dụng cần bám sát các DNNVV tham gia cung ứng dịch vụ và hàng hóa cho khu vực công, các DN lớn thuộc khu vực Nhà nước và dân doanh và là nhân tố “then chốt” của chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu thông qua “đầu mối” là các doanh nghiệp FDI, các tập đoàn lớn của nước ngoài. Các DNNVV mạnh dạn ứng dụng, nhận chuyển giao KH & CN, sản xuất sản phẩm CN cao và chủ động tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước nên là ưu tiên lựa chọn hơn để tài trợ của các ngân hàng, dù có không ít khó khăn ban đầu mà họ phải đối mặt;
Trong điều kiện phần lớn DNNVV còn có hạn chế về năng lực quản trị doanh nghiệp, chấp hành chế độ báo cáo tài chính chưa tốt, tiếp cận các thông tin thị trường và cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan còn khó khăn ... hệ thống ngân hàng nên chủ động tranh thủ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị đối với hoạt động tín dụng ngân hàng vừa giúp tăng tính minh bạch của tín dụng, đề cao sự tuân thủ pháp luật về tài chính, tín dụng và hoạt động ngân hàng, vừa giúp đẩy nhanh quá trình “xã hội hóa” các trách nhiệm dân sự về quan hệ tín dụng. Đó cũng chính là quá trình tạo xu hướng tích cực buộc các DNNVV phải nỗ lực tự chủ, tự cường để tự lớn lên, mạnh lên nhanh hơn. Nếu không họ vẫn phải đối mặt thường xuyên với sự lựa chọn và đào thải khách hàng của các NHTM, dù hoạt động tín dụng sắp tới sẽ được mở rộng, thông thoáng hơn nữa;
Tựu chung lại, việc tháo gỡ khó khăn tín dụng sẽ thuận lợi hơn nếu đặt trong mối quan hệ tổng thể có sự cải thiện tốt hơn môi trường kinh doanh của khu vực DNNVV. Các ngân hàng hoàn toàn có thể mở rộng, đa dạng hóa các hoạt động cung cấp dịch vụ tư vấn, hỗ trợ pháp lý, xúc tiến thương mại, đào tạo nâng cao kỹ năng quản trị doanh nghiệp, cũng như tích cực tham gia hình thành hệ thống bảo lãnh tín dụng có hiệu quả hơn cho các DNNVV. Đây cũng là quá trình mà các ngân hàng xích lại gần hơn, hiểu rõ hơn đối tượng khách hàng của mình nhằm tháo gỡ nhanh hơn khó khăn tín dụng hiện nay ./.
Khu vực DNNVV chiếm tỷ lệ tiếp cận vay và vốn vay được còn thấp (khoảng 32,38%), tỷ lệ nợ xấu tăng cao (hiện trên 5%), thường khó đáp ứng các yêu cầu ngặt nghèo về điều kiện, thủ tục tín dụng liên quan đến tài sản đảm bảo, tính chuẩn mực hệ thống báo cáo tài chính, lịch sử quan hệ giao dịch, xếp hạng rủi ro khách hàng ... Bên cạnh đó, tỷ lệ DNNVV tiếp cận và được các quĩ bảo lãnh tín dụng bảo lãnh vay vốn các NHTM cũng rất thấp, tỷ lệ rủi ro về bảo lãnh cao (gần 27%). Các quỹ bảo lãnh tín dụng chưa đảm đương được vai trò là “bà đỡ” quan trọng cho mở rộng tín dụng tới các DNNVV. Việc xử lý nợ xấu chậm trễ và điều chỉnh lãi vay chưa hợp lý cũng là trở ngại lớn cho khách hàng có nợ quá hạn cần vay mới. Việc dãn, hoãn, khoanh nợ, giảm lãi vay cũ, tạo điều kiện cho vay mới với lãi suất hợp lý, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn theo chủ trương của Chính phủ làm chưa được nhiều, chưa kịp thời ...
Lúc này giữa ngân hàng và doanh nghiệp phải có được tiếng nói chung, sớm tái lập và củng cố niềm tin vào nhau, cùng hướng đến phá thế co cụm tín dụng, ngân hàng thì “ế vốn” muốn mà khó cho vay, DNNVV cần vốn không vay được. Theo đó tạo cơ sở để giới ngân hàng giải tỏa mọi quan ngại rủi ro, tự tin hơn khi cho vay, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp làm ăn căn cơ mạnh dạn vay vốn. Tuy nhiên, thực hiện định hướng giúp ngân hàng mở rộng tín dụng lành mạnh, không phát sinh nợ xấu mới đòi hỏi phải giải quyết khá nhiều vấn đề vướng mắc, liên quan nhiều cấp độ ban, ngành từ trung ương đến địa phương, từ chủ trương, chính sách kinh tế đến cơ chế, qui chế tín dụng hiện hành ;
Cần nhanh chóng kiện toàn và triển khai quyết liệt hơn nữa nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển khu vực DNNVV trước khi tính tới cần có 01 sắc luật về hỗ trợ phát triển khu vực DNNVV. Lâu nay chỉ vì sự phối hợp chưa ăn khớp, thiếu đồng bộ khâu thực thi chủ trương, chính sách, lại thêm nhiều rào cản TTHC mà nhiều quyết sách đúng đắn về phát triển DNNVV chưa vào được cuộc sống, chưa phát huy hết hiệu quả thực tế như kỳ vọng. Làm được như vậy các gói kích cầu “tín dụng” theo chỉ đạo của Chính phủ sẽ có đầy đủ điều kiện thực thi an toàn, hiệu quả nhanh chóng. Cần nhanh chóng hoàn thiện sớm các khung khổ pháp lý liên quan hoạt động tín dụng theo hướng giảm thiểu “hình sự hóa” phần lớn các quan hệ tín dụng để chủ yếu xử lý được theo cơ chế thị trường ;
Trong bối cảnh “tổng cầu” còn yếu, nhưng nền kinh tế đã xuất hiện nhiều dấu hiệu “thoát đáy” khủng hoảng, thay vì chờ đợi nền kinh tế “ấm hẳn”, sức “cầu” tín dụng ngân hàng hồi phục hoàn toàn; NHNN Việt Nam có thể chủ động sử dụng 01 số công cụ chính sách tiền tệ, tín dụng "kích cầu" tín dụng khu vực DNNVV. Trong điều kiện lạm phát duy trì được ở mức thấp hơn tăng trưởng GDP như hiện nay và mức chênh lệch lãi suất huy động/cho vay của các NHTM là khá cao, phần lớn vốn nhàn rỗi của nền kinh tế vẫn ở tình trạng “ứ đọng” ... thì khả năng giảm tỷ lệ DTBB, tăng tỷ lệ tái cấp vốn, tăng thời hạn và liều lượng “bơm” tiền qua OMO nhằm gián tiếp tác động giảm tiếp mặt bằng lãi suất cho vay thấp hơn nữa nhằm khoan sức cho doanh nghiệp là khả năng hiện hữu. Việc điều hành tỷ giá hối đoái chỉ nên điều chỉnh linh hoạt ở biên độ “hẹp” do kinh tế vĩ mô chưa thực ổn định bền vững và năng suất lao động bình quân nền kinh tế còn rất thấp. Bất kỳ 01 sự phá giá VND mà làm quá đột ngột đều dễ gây tâm lý “khuyếch đại” rủi ro tỷ giá, sẽ nhanh chóng phá vỡ thế ổn định giá trị “đối nội”, “đối ngoại” của VND, không có lợi cho khuyến khích đầu tư khôi phục, phát triển kinh tế hiện nay.
Tuy nhiên, chủ động kích “cầu” tín dụng, tháo gỡ khó khăn cho khu vực DNNVV cần tránh xu hướng nôn nóng tăng trưởng thiên về số lượng mà nên kết hợp vừa tăng trưởng về số lượng, vừa đảm bảo về chất lượng tín dụng, gắn liền với tái cơ cấu DNNVV đã và đang trải qua quá trình “sàng lọc tự nhiên” không ít đớn đau vừa qua. Như vậy phù hợp với yêu cầu xử lý nợ xấu khẩn trương hiện nay, không phát sinh nợ xấu mới hoặc làm nợ xấu cũ "xấu hơn". Chính sách tín dụng thay vì khuyến khích các ngân hàng chỉ cho vay khách hàng truyền thống, cũng cần quan tâm thực sự giúp DNNVV vượt qua khó khăn do lâm vào hoàn cảnh nợ quá hạn bất đắc dĩ, nhưng có đủ cơ sở phục hồi, tái thiết và chú trọng thực sự nâng đỡ các doanh nghiệp mới khởi nghiệp, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao, doanh nghiệp chủ động hội nhập tham gia vào các chuỗi giá trị cung ứng trong và ngoài nước;
Tháo gỡ khó khăn tín dụng cho khu vực DNNVV buộc các ngân hàng phải năng động, chủ động và sáng tạo hơn trong việc cải tiến, đổi mới các mô hình, cách thức cho vay mà vẫn kiểm soát tốt rủi ro. Các loại hình, sản phẩm tín dụng đối với khu vực DNNVV thường gắn với thực trạng hoạt động theo từng lĩnh vực, ngành hàng của doanh nghiệp. Theo đó các qui chế, qui trình tín dụng đòi hỏi luôn có sự hoàn thiện theo tình hình thị trường. Chủ trương của Chính phủ định hướng hệ thống ngân hàng tăng tỷ lệ cho vay tín chấp là thử thách lớn, đòi hỏi phải có hệ thống thông tin khách hàng đầy đủ, hệ thống báo cáo tài chính, kế toán, thống kê minh bạch, qui chế, qui trình quản trị rủi ro chuẩn mực, và đặc biệt là tính tuân thủ cao trong công tác thẩm định, phê duyệt tín dụng. Các hoạt động tín dụng cần bám sát các DNNVV tham gia cung ứng dịch vụ và hàng hóa cho khu vực công, các DN lớn thuộc khu vực Nhà nước và dân doanh và là nhân tố “then chốt” của chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu thông qua “đầu mối” là các doanh nghiệp FDI, các tập đoàn lớn của nước ngoài. Các DNNVV mạnh dạn ứng dụng, nhận chuyển giao KH & CN, sản xuất sản phẩm CN cao và chủ động tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước nên là ưu tiên lựa chọn hơn để tài trợ của các ngân hàng, dù có không ít khó khăn ban đầu mà họ phải đối mặt;
Trong điều kiện phần lớn DNNVV còn có hạn chế về năng lực quản trị doanh nghiệp, chấp hành chế độ báo cáo tài chính chưa tốt, tiếp cận các thông tin thị trường và cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan còn khó khăn ... hệ thống ngân hàng nên chủ động tranh thủ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị đối với hoạt động tín dụng ngân hàng vừa giúp tăng tính minh bạch của tín dụng, đề cao sự tuân thủ pháp luật về tài chính, tín dụng và hoạt động ngân hàng, vừa giúp đẩy nhanh quá trình “xã hội hóa” các trách nhiệm dân sự về quan hệ tín dụng. Đó cũng chính là quá trình tạo xu hướng tích cực buộc các DNNVV phải nỗ lực tự chủ, tự cường để tự lớn lên, mạnh lên nhanh hơn. Nếu không họ vẫn phải đối mặt thường xuyên với sự lựa chọn và đào thải khách hàng của các NHTM, dù hoạt động tín dụng sắp tới sẽ được mở rộng, thông thoáng hơn nữa;
Tựu chung lại, việc tháo gỡ khó khăn tín dụng sẽ thuận lợi hơn nếu đặt trong mối quan hệ tổng thể có sự cải thiện tốt hơn môi trường kinh doanh của khu vực DNNVV. Các ngân hàng hoàn toàn có thể mở rộng, đa dạng hóa các hoạt động cung cấp dịch vụ tư vấn, hỗ trợ pháp lý, xúc tiến thương mại, đào tạo nâng cao kỹ năng quản trị doanh nghiệp, cũng như tích cực tham gia hình thành hệ thống bảo lãnh tín dụng có hiệu quả hơn cho các DNNVV. Đây cũng là quá trình mà các ngân hàng xích lại gần hơn, hiểu rõ hơn đối tượng khách hàng của mình nhằm tháo gỡ nhanh hơn khó khăn tín dụng hiện nay ./.
TS Phạm Ngọc Long
Viện trưởng Viện Khoa học Quản trị DNNVV
