TPP: Cơ hội, thách thức với cải cách và phát triển của Việt Nam
Ngày 15/11/2013, Bộ Công Thương (MOIT) tổ chức Hội nghị với chủ đề “Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương và quá trình tham gia của Việt Nam”.
Ngày 15/11/2013, Bộ Công Thương (MOIT) tổ chức Hội nghị với chủ đề “Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương và quá trình tham gia của Việt Nam”.

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng phát biểu tại Hội nghị
TS Phạm Ngọc Long, Viện trưởng Viện Khoa học Quản trị DNNVV (SISME) có tham dự và lược ghi một số thông tin xoay quanh Hội nghị này.
Kỳ vọng lớn từ TPP.
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định TPP) là hiệp định thương mại tự do (FTA) đi vào chiều sâu hơn, chỉ đứng sau các cam kết theo khuôn khổ WTO (Việt Nam gia nhập 2007). Đây được coi là “điểm nhấn” về hiệp định thương mại thập niên đầu thế kỷ 21, khi mà bối cảnh kinh tế thương mại và đầu tư quốc tế phức tạp vượt tầm kiểm soát của các nước vốn là đầu tàu kinh tế xưa nay. Hiệp định này hiện có 12 thành viên tham gia bao gồm: Bru-nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Hoa Kỳ, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Nhật Bản, Niu Di-lân, Ốt-xtrây-li-a, Pê-ru, Xinh-ga-po và Việt Nam. Theo tuyên bố của các nhà lãnh đạo TPP tại cuộc họp bên lề Hội nghị cấp cao APEC tổ chức tại Ba-li từ ngày 3 đến ngày 8/10/2013, các nước TPP đang nỗ lực thúc đẩy đàm phán để cơ bản kết thúc đàm phán vào cuối năm 2013. Trong bối cảnh đàm phán Hiệp định TPP đang bước vào giai đoạn quyết định, Hội nghị “Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương và quá trình tham gia của Việt Nam” được tổ chức nhằm phổ biến thông tin về Hiệp định này cho các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp và các đối tượng chịu ảnh hưởng khác.
Hiệp định TPP đã tiến hành 19 phiên chính thức và nhiều phiên giữa kỳ, trong đó có 2 phiên cấp Bộ trưởng diễn ra tại Bru-nây (tháng 8/2013) và Bali (tháng 10/2013). Dự kiến phiên tiếp theo sẽ diễn ra tại Salt Lake City, Hoa Kỳ từ ngày 18 đến 24/11/2013. Phiên đàm phán cấp Bộ trưởng sẽ diễn ra tại Xinh-ga-po vào đầu tháng 12 năm nay. Qua quá trình đàm phán vừa qua, các nước tham dự đã đạt được các thỏa thuận sơ bộ về nhiều vấn đề quan trọng : hợp tác và xây dựng năng lực, doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì sự phát triển, gắn kết môi trường chính sách, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, thị thực nhập cảnh tạm thời của doanh nhân nước ngoài, chính sách cạnh tranh ... Có cả thảy 20 lĩnh vực và 30 nhóm vấn đề khác nhau, đã và đang được các thành viên tiếp tục đàm phán: mở cửa thị trường hàng hóa, quy tắc xuất xứ, TBT, SPS, cung cấp dịch vụ qua biên giới, dịch vụ tài chính, thương mại điện tử, đầu tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm của Chính phủ, lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước …
Những phân tích và nhận định về cơ hội và thách thức từ TPP của các lãnh đạo MOIT và các đại biểu tham dự Hội nghị nhận được rất nhiều quan tâm của các đại biểu tham dự. Theo đó, việc tham gia Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam cải thiện cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu; mở thêm thị trường cho hàng hóa của Việt Nam; tham gia các chuỗi sản xuất khu vực và quốc tế; tạo thuận lợi cho tái cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng; hoàn thiện môi trường thể chế; tăng tính hấp dẫn với đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, tạo năng lực sản xuất mới và tạo việc làm cho người lao động. Tuy vậy, TPP cũng đi kèm với nhiều thách thức trong đó là sức ép cạnh tranh và tác động xã hội, sức ép điều chỉnh hệ thống pháp luật, tư duy quản lý và năng lực quản lý.
Năm bắt cơ hội, ứng phó thách thức
Đại diện ngành Dệt may nêu quan điểm và cách tiếp cận của ngành Dệt may đối với Hiệp định TPP. Về thương mại và đầu tư, trong 16.000 dòng thuế HS 8 chữ số, hàng dệt may thuộc các chương HS 50-63 mà Hoa Kỳ có nhập khẩu, Việt Nam có xuất khẩu vào Hoa Kỳ khoảng 1.000 dòng thuế với thuế suất MFN bình quân 17-18%. Hiệp định TPP được kỳ vọng sẽ cắt giảm mức thuế quan này dần về 0%. Về lý thuyết, Quy tắc xuất xứ khuyến khích sử dụng nguyên liệu nội dung khối TPP sẽ góp phần thúc đẩy đầu tư vào khâu sợi dệt nhuộm tại Việt Nam. Với triển vọng Hiệp định TPP, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ có thể tăng trưởng 13-20%/năm trong giai đoạn 2013 – 2017 và có thể đạt 25 – 30 tỷ USD vào năm 2025, đưa quy mô xuất khẩu toàn ngành năm 2025 đạt khoảng 50- 55 tỷ USD. Bên cạnh đó, nếu TPP thúc đẩy tốt đầu tư vào nguyên liệu như dự kiến thì các chỉ tiêu về xuất siêu, giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa của ngành sẽ đều được nâng cao. Dự kiến ngành sẽ về đích sớm với mục tiêu đạt tỷ lệ nội địa hóa 60% vào năm 2015 và 70% vào năm 2020. TPP cùng các FTA đang đàm phán với EU, Liên minh Hải quan Nga - Bê-la-rút - Ca-dắc-xtan sẽ là cơ hội lớn tiếp theo cho ngành Dệt may Việt Nam.
Để có thể hưởng lợi từ Hiệp định TPP, ngành Dệt may đề xuất bản chào thuế cần cắt giảm thuế nhanh, mạnh để tạo động lực đủ lớn; Quy tắc xuất xứ phải có tính khả thi cao, nếu không sẽ tạo thành rào cản, thách thức lớn cho quá trình thực thi Hiệp định; Thách thức từ xu hướng đầu tư nhanh, mạnh của khối FDI với lợi thế cả về tài chính, công nghệ và thị trường, cần cân đối giữa lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI ; Thách thức từ xu hướng đầu tư nhanh, mạnh của khối FDI với lợi thế cả về tài chính, công nghệ và thị trường, cần cân đối giữa lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI. Bên cạnh đó còn có các đề xuất khác đối với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc nắm bắt cơ hội và ứng phó với thách thức từ TPP, như : cần xây dựng quy hoạch phát triển ngành Dệt may đến năm 2030, tầm nhìn 2050, trong đó xác định rõ vai trò, vị trí, quy mô của ngành Dệt may; có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp dệt may phát triển tích hợp theo chiều dọc và liên kết chuỗi cung ứng; có cơ chế tham vấn giữa chính quyền địa phương với bộ ngành và hiệp hội khi xem xét cấp phép dự án FDI vào ngành Dệt may; phối hợp với Đoàn đàm phán Chính phủ và nhóm công tác VITAS tuyên truyền, quảng bá về TPP, FTA Việt Nam – EU đến các doanh nghiệp dệt may.
Đại diện Hiệp hội chăn nuôi bày tỏ lo ngại hiện thị phần thịt bò trong nước chiếm khoảng 70%, nếu căn cứ theo cam kết TPP nằm trong dòng thuế giảm về 0% từ sau năm 2020 thì ngành chăn nuôi gia súc này khó tồn tại ! qua giải đáp của lãnh đạo MOIT (hiện đang là trưởng đoàn đàm phán TPP của Việt Nam) thì thị phần thịt bỏ trong nước không đến 40% và thịt bò Úc nhập khẩu đang chịu thuế suất 40% lại rẻ hơn thị bò trong nước là rất khó hiểu ! Bản thân ngành chăn nuôi gia súc trong nước phải xem lại về tổ chức quản lý sản xuất trong nước? Theo quan điểm của SISME thì không chỉ ngành chăn nuôi mà nhiều ngành hàng nông nghiệp khác, hệ thống bao tiêu, phân phối sản phẩm nông nghiệp vẫn tồn tại nhiều bất cập.
Luôn có tình trạng được mùa thì mất giá và được giá thì phá bỏ hợp đồng, người làm ra cây trồng, vật nuôi luôn “thiệt đơn, thiệt kép”, vẫn chỉ “thương lái, đầu nậu” hưởng lợi lớn, còn người tiêu dùng thì chỉ còn cách ráng chịu trận với các chiêu trò “làm giá” của họ;
Qua sơ bộ trao đổi do chủ đề Hội nghị quá rộng, nên vấn đề cơ hội, thách thức trực diện đối với SMEs Việt Nam chưa được làm rõ ngoài những nét chính TPP cam kết tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển khu vực doanh nghiệp này.
Nhân đây xin kiến nghị Hiệp hội DNNVV Việt Nam (VINASME) nên trao đổi với MOIT tổ chức Diễn đàn chủ đề riêng cho SMEs Việt Nam để nắm bắt, ứng phó kịp với diễn biến TPP trước, trong và sau khi Việt Nam chính thức gia nhập và thực hiện các cam kết sẽ được ký kết;
TS. Phạm Ngọc Long
Viện trưởng Viện SISME

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng phát biểu tại Hội nghị
TS Phạm Ngọc Long, Viện trưởng Viện Khoa học Quản trị DNNVV (SISME) có tham dự và lược ghi một số thông tin xoay quanh Hội nghị này.
Kỳ vọng lớn từ TPP.
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định TPP) là hiệp định thương mại tự do (FTA) đi vào chiều sâu hơn, chỉ đứng sau các cam kết theo khuôn khổ WTO (Việt Nam gia nhập 2007). Đây được coi là “điểm nhấn” về hiệp định thương mại thập niên đầu thế kỷ 21, khi mà bối cảnh kinh tế thương mại và đầu tư quốc tế phức tạp vượt tầm kiểm soát của các nước vốn là đầu tàu kinh tế xưa nay. Hiệp định này hiện có 12 thành viên tham gia bao gồm: Bru-nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Hoa Kỳ, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Nhật Bản, Niu Di-lân, Ốt-xtrây-li-a, Pê-ru, Xinh-ga-po và Việt Nam. Theo tuyên bố của các nhà lãnh đạo TPP tại cuộc họp bên lề Hội nghị cấp cao APEC tổ chức tại Ba-li từ ngày 3 đến ngày 8/10/2013, các nước TPP đang nỗ lực thúc đẩy đàm phán để cơ bản kết thúc đàm phán vào cuối năm 2013. Trong bối cảnh đàm phán Hiệp định TPP đang bước vào giai đoạn quyết định, Hội nghị “Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương và quá trình tham gia của Việt Nam” được tổ chức nhằm phổ biến thông tin về Hiệp định này cho các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp và các đối tượng chịu ảnh hưởng khác.
Hiệp định TPP đã tiến hành 19 phiên chính thức và nhiều phiên giữa kỳ, trong đó có 2 phiên cấp Bộ trưởng diễn ra tại Bru-nây (tháng 8/2013) và Bali (tháng 10/2013). Dự kiến phiên tiếp theo sẽ diễn ra tại Salt Lake City, Hoa Kỳ từ ngày 18 đến 24/11/2013. Phiên đàm phán cấp Bộ trưởng sẽ diễn ra tại Xinh-ga-po vào đầu tháng 12 năm nay. Qua quá trình đàm phán vừa qua, các nước tham dự đã đạt được các thỏa thuận sơ bộ về nhiều vấn đề quan trọng : hợp tác và xây dựng năng lực, doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì sự phát triển, gắn kết môi trường chính sách, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, thị thực nhập cảnh tạm thời của doanh nhân nước ngoài, chính sách cạnh tranh ... Có cả thảy 20 lĩnh vực và 30 nhóm vấn đề khác nhau, đã và đang được các thành viên tiếp tục đàm phán: mở cửa thị trường hàng hóa, quy tắc xuất xứ, TBT, SPS, cung cấp dịch vụ qua biên giới, dịch vụ tài chính, thương mại điện tử, đầu tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm của Chính phủ, lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước …
Những phân tích và nhận định về cơ hội và thách thức từ TPP của các lãnh đạo MOIT và các đại biểu tham dự Hội nghị nhận được rất nhiều quan tâm của các đại biểu tham dự. Theo đó, việc tham gia Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam cải thiện cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu; mở thêm thị trường cho hàng hóa của Việt Nam; tham gia các chuỗi sản xuất khu vực và quốc tế; tạo thuận lợi cho tái cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng; hoàn thiện môi trường thể chế; tăng tính hấp dẫn với đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, tạo năng lực sản xuất mới và tạo việc làm cho người lao động. Tuy vậy, TPP cũng đi kèm với nhiều thách thức trong đó là sức ép cạnh tranh và tác động xã hội, sức ép điều chỉnh hệ thống pháp luật, tư duy quản lý và năng lực quản lý.
Năm bắt cơ hội, ứng phó thách thức
Đại diện ngành Dệt may nêu quan điểm và cách tiếp cận của ngành Dệt may đối với Hiệp định TPP. Về thương mại và đầu tư, trong 16.000 dòng thuế HS 8 chữ số, hàng dệt may thuộc các chương HS 50-63 mà Hoa Kỳ có nhập khẩu, Việt Nam có xuất khẩu vào Hoa Kỳ khoảng 1.000 dòng thuế với thuế suất MFN bình quân 17-18%. Hiệp định TPP được kỳ vọng sẽ cắt giảm mức thuế quan này dần về 0%. Về lý thuyết, Quy tắc xuất xứ khuyến khích sử dụng nguyên liệu nội dung khối TPP sẽ góp phần thúc đẩy đầu tư vào khâu sợi dệt nhuộm tại Việt Nam. Với triển vọng Hiệp định TPP, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ có thể tăng trưởng 13-20%/năm trong giai đoạn 2013 – 2017 và có thể đạt 25 – 30 tỷ USD vào năm 2025, đưa quy mô xuất khẩu toàn ngành năm 2025 đạt khoảng 50- 55 tỷ USD. Bên cạnh đó, nếu TPP thúc đẩy tốt đầu tư vào nguyên liệu như dự kiến thì các chỉ tiêu về xuất siêu, giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa của ngành sẽ đều được nâng cao. Dự kiến ngành sẽ về đích sớm với mục tiêu đạt tỷ lệ nội địa hóa 60% vào năm 2015 và 70% vào năm 2020. TPP cùng các FTA đang đàm phán với EU, Liên minh Hải quan Nga - Bê-la-rút - Ca-dắc-xtan sẽ là cơ hội lớn tiếp theo cho ngành Dệt may Việt Nam.
Để có thể hưởng lợi từ Hiệp định TPP, ngành Dệt may đề xuất bản chào thuế cần cắt giảm thuế nhanh, mạnh để tạo động lực đủ lớn; Quy tắc xuất xứ phải có tính khả thi cao, nếu không sẽ tạo thành rào cản, thách thức lớn cho quá trình thực thi Hiệp định; Thách thức từ xu hướng đầu tư nhanh, mạnh của khối FDI với lợi thế cả về tài chính, công nghệ và thị trường, cần cân đối giữa lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI ; Thách thức từ xu hướng đầu tư nhanh, mạnh của khối FDI với lợi thế cả về tài chính, công nghệ và thị trường, cần cân đối giữa lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI. Bên cạnh đó còn có các đề xuất khác đối với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc nắm bắt cơ hội và ứng phó với thách thức từ TPP, như : cần xây dựng quy hoạch phát triển ngành Dệt may đến năm 2030, tầm nhìn 2050, trong đó xác định rõ vai trò, vị trí, quy mô của ngành Dệt may; có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp dệt may phát triển tích hợp theo chiều dọc và liên kết chuỗi cung ứng; có cơ chế tham vấn giữa chính quyền địa phương với bộ ngành và hiệp hội khi xem xét cấp phép dự án FDI vào ngành Dệt may; phối hợp với Đoàn đàm phán Chính phủ và nhóm công tác VITAS tuyên truyền, quảng bá về TPP, FTA Việt Nam – EU đến các doanh nghiệp dệt may.
Đại diện Hiệp hội chăn nuôi bày tỏ lo ngại hiện thị phần thịt bò trong nước chiếm khoảng 70%, nếu căn cứ theo cam kết TPP nằm trong dòng thuế giảm về 0% từ sau năm 2020 thì ngành chăn nuôi gia súc này khó tồn tại ! qua giải đáp của lãnh đạo MOIT (hiện đang là trưởng đoàn đàm phán TPP của Việt Nam) thì thị phần thịt bỏ trong nước không đến 40% và thịt bò Úc nhập khẩu đang chịu thuế suất 40% lại rẻ hơn thị bò trong nước là rất khó hiểu ! Bản thân ngành chăn nuôi gia súc trong nước phải xem lại về tổ chức quản lý sản xuất trong nước? Theo quan điểm của SISME thì không chỉ ngành chăn nuôi mà nhiều ngành hàng nông nghiệp khác, hệ thống bao tiêu, phân phối sản phẩm nông nghiệp vẫn tồn tại nhiều bất cập.
Luôn có tình trạng được mùa thì mất giá và được giá thì phá bỏ hợp đồng, người làm ra cây trồng, vật nuôi luôn “thiệt đơn, thiệt kép”, vẫn chỉ “thương lái, đầu nậu” hưởng lợi lớn, còn người tiêu dùng thì chỉ còn cách ráng chịu trận với các chiêu trò “làm giá” của họ;
Qua sơ bộ trao đổi do chủ đề Hội nghị quá rộng, nên vấn đề cơ hội, thách thức trực diện đối với SMEs Việt Nam chưa được làm rõ ngoài những nét chính TPP cam kết tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển khu vực doanh nghiệp này.
Nhân đây xin kiến nghị Hiệp hội DNNVV Việt Nam (VINASME) nên trao đổi với MOIT tổ chức Diễn đàn chủ đề riêng cho SMEs Việt Nam để nắm bắt, ứng phó kịp với diễn biến TPP trước, trong và sau khi Việt Nam chính thức gia nhập và thực hiện các cam kết sẽ được ký kết;
TS. Phạm Ngọc Long
Viện trưởng Viện SISME
